Luyện dịch song ngữ: NGƯỜI DO THÁI – CHƯƠNG 5: QUAN NIỆM VỀ CÁI THIỆN – CÁI ÁC VÀ TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI DO THÁI– P3

  • 기도 – LỜI CẦU NGUYỆN

먼 바다로 항해하는 배에 세계 각국 사람들이 함께 타고 있었습니다. 그런데 항해 도중 갑자기 폭풍이 일었습니다.

Trên một vùng biển xa xăm, có một con thuyền nọ đang đi biển và chở rất nhiều người của nhiều nước khác nhau trên thế giới.

바람이 세차게 불고, 산더미 같은 파도가 밀려들어 배는 금방이라도 바다 속에 잠길 것 같았습니다.

Đang đi nửa đường, đột nhiên con thuyền gặp phải trận cuồng phong rất lớn. Gió thổi ào ào, ập đến tới tấp khiến cho con thuyền như muốn chìm xuống biển.

끝없이 넓은 바다 한가운데에서 사람들은 모두 죽음의 공포에 떨었습니다.

Giữa biển khơi rộng lớn mênh mông này, tất cả mọi người ai nấy đều đang run sợ trước cái chết.

사람들은 저마다 자신들이 믿는 신에게 기도를 하기 시작했습니다.

Mỗi người bắt đầu cầu nguyện, cầu khẩn vị thần mà bản thân họ tin tưởng để giúp họ thoát khỏi trận cuồng phong này.

 그러나 아무리 기도를 해도 폭풍우가 멎기는커녕 점점 더 거세어지기만 했습니다.

 Thế nhưng, cho dù có cầu nguyện thế nào đi chăng nữa thì trận cuồng phong không những không bớt đi mà ngày càng trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.

그 때 유태인만은 전혀 기도를 하지 않고 있었습니다.

Lúc đó, chỉ có người Do Thái nọ là không cầu nguyện.

그래서 사람들은,

“당신은 왜 기도를 하지 않는 거요?” 하고 나무랐습니다.

Thấy thế, mọi người ai nấy đều hỏi với thái độ trách mắng:

-Sao ngài lại không cầu nguyện?

그러자 잠자코 있던 유태인이 비로소 기도를 했습니다.

Người Do Thái vốn đã rất im lặng đến lúc đó mới bắt đầu cầu nguyện.

유태인이 기도를 하자 폭풍우는 거짓말처럼 가라않았다고 합니다.

Điều kỳ diệu chính là ngay khi người Do Thái đó cầu nguyện xong thì trận cuồng phong cũng biến mất và biển lại trở nên yên ắng như chưa có gì xảy ra.

배는 무사히 항구에 고착했습니다.

Thế là con thuyền an toàn cập bến vào bờ.

“우리들이 열심히 기도를 해도 효험이 전혀 없었습니다. 그런데 당신이 기로를 하자 폭풍우가 가라앉았는데, 그 까닭이 무엇인가요?”

-Tất cả chúng tôi đều cầu nguyện nhưng không hề hiệu nghiệm. Riêng ngài cầu nguyện thì cơn giông bão lại lắng xuống, vậy nguyên nhân là vì sao?

“그건 저도 잘 알 수가 없습니다. 하지만 당신들은 각기 당신네 나라에서 믿는 신에게 기도를 했습니다. 바빌로니아 사람은 바빌로니아 신에게 기도를 하고, 로마 사람은 로마 신에게 기도를 했지요. 그런데 바다는 바빌로니아나 로마에만 속한 것이 아닙니다. 어느 나라에도 속해 있지 않습니다. 우리 유태인들이 믿는 신은 우주를 지배하시는 전능하신 신이기 때문에 바다에서 기도한 저의 소원을 들어주신 것 같습니다.”

유태인이 대답했습니다.

-Điều đó tôi cũng thật sự không hiểu rõ. Thế nhưng, tôi nghĩ rằng lý do là như thế này. Các vị ai nấy cũng đều cầu nguyện vị thần của quốc gia mình. Người Babylonia thì cầu nguyện thần Babylonia, người Roma thì cầu nguyện thần Roma. Thế nhưng, biển cả lại không thuộc quản lý của thần Roma hay thần Babylonia và cũng không thuộc một đất nước nào cả. Dường như chính vị thần toàn năng chi phối cả vũ trụ mà người Do Thai chúng tôi tin tưởng đã nghe thấu lời cầu nguyện của tôi ngoài tận biển xa, nên đã giúp đỡ.

Người Do Thái nọ trả lời.

  • 사랑 – TÌNH YÊU

솔로몬 왕에게는 매우 아름답고 영리한 공주가 하나 있었습니다

Vị hoàng đế Somolon có một cô công chúa vô cùng xinh đẹp mà lại rất thông minh lanh lợi.

어느 날 솔로몬 왕은 꿈을 꾸었습니다.

Một ngày nọ, hoàng đế Somolon mơ một giấc mơ.

 왕이 가장 사랑하는 공주의 남편 될 사람이 꿈 속에 나타났는데, 왠지 그 사람은 공주에게 전혀 어울리지 않는 것 같았습니다.

Trong giấc mơ ấy xuất hiện người sẽ trờ thành chồng của nàng công chúa mà ngài hết mực thương yêu, nhưng không hiểu tại sao người đó lại hoàn toàn không thích hợp để trở thành chồng của công chúa.

꿈에서 깨어난 왕은 아무리 생각해도 꺼럼칙하고 기분이 좋지 않았습니다. 그리고 언젠가는 그 사람이 찾아와서 공주의 남편이 되면 어쩌나 하는 걱정이 생겼습니다.

Vị hoàng đế bừng tỉnh, nghĩ ngợi mãi và trong lòng cảm thấy bất an, lo sợ rằng một ngày nào đó, người mà ông mơ thấy sẽ đến tìm và trở thành chồng của công chúa thì phải làm sao?

그래서 솔로몬 왕은 마침내 결심을 했습니다.

Cuối cùng, sau khi suy nghĩ rất lâu, vị hoàng đế quyết định hành động.

“그래, 공주가 결혼하기 전까지 사람들이 없는 외딴 곳에 있게 하자. 그리고 공주에게 알맞은 남편감을 구해서 결혼을 시켜지”.

-Đến khi công chúa thành hôn, ta sẽ đưa con gái đến nơi hẻo lánh không có bóng người ở rồi sẽ tìm người thích hợp làm chồng công chúa và gả công chúa cho người đó. Như vậy thì người đàn ông trong giấc mơ sẽ không thể nào tìm được công chúa.

솔로몬 왕은 작은 섬으로 공주를 데려갔습니다.

Thế là hoàng đế Somolo đưa công chúa đi ra một hòn đảo nhỏ.

그리고 그 곶에 별궁을 짓고 공주가 밖으로 나오지 못하도록 문을 잠갔습니다.

 Trên hòn đảo ấy, hoàng đế cho dựng một biệt điện, khóa cửa không cho công chúa ra ngoài.

또한 별궁 주위에는 높은 담을 쌓고, 많은 병사들이 지키게 한 다음, 열쇠는 솔로몬 왕이 가지고 궁전으로 돌아왔습니다.

Vị hoàng đế còn cho xây cả bức tường cao bao quanh biệt điện, cử rất nhiều binh lính canh gác nghiệm ngặt. Sau đó, chính ông đích thân giữ chìa khóa của biệt điện và quay trở về hoàng cung.

그런데 왕이 꿈 속에서 본 공주의 남편 될 사나이는 어느 황야에서 혼자 방황을 하고 있었습니다. 그는 밤이 되자 몹시 추웠습니다.

Mặt khác, người đàn ông sẽ trở thành chồng của công chúa trong giấc mơ của hoàng đế hiện đang lang bạt một mình trên một vùng đất hoang vu nọ.

벌판에는 동굴도 없고 마땅하게 쉴 만한 곳도 없었습니다. 그는 큰 나무 밑에서, 가지고 다니던 사자 가죽으로 몸을 감싼 채 잠이 들었습니다.

Trên vùng đất hoang ấy, hang động cũng không có, đến một nơi nghỉ tử tế cũng không có, người đàn ông nọ chỉ biết nằm dưới gốc cây, khoác lên người tấm da sư tử mang theo để chống đỡ với cái lạnh ngoài trời và thiếp đi, chìm vào giấc ngủ.

이 때 큰 새가 날아와서 사자 가죽과 함께 잠이 든 사나이를 물어다가 공주가 감금되어 있는 별궁 위에 떨어뜨렸습니다.

Lúc ấy, một con chim lớn bay đến, gắp người đàn ông đang ngủ bay đi và thả xuống ngay biệt điện đang giam giữ công chúa.

아무도 없는 외딴 섬 별궁에 갇혀 있던 공주는 사나이를 만나자 몹시 반가왔습니다.

Nàng công chúa xinh đẹp đang bị giam giữ trong biệt điện ngoài đảo hoang gặp người đang ông nọ và chìm đắm vào tình yêu.

공주는 사나이로부터 여행 이야기를 들었습니다. 그리고 왕궁의 얘기를 들려주기도 했습니다.

Người đàn ông kể cho công chúa nghe về những chuyến phiêu bạt của mình, công chúa cũng kể cho người đàn ông ấy nghe về những câu chuyện trong hoàng cung.

하루 이틀 지나는 동안 두 사람은 서로 사랑하게 되어 결혼을 약속했습니다.

Một ngày, hai ngày,… trôi qua và hai người họ đã yêu nhau tự lúc nào, hứa hẹn sẽ kết hôn với nhau.

한편 솔로몬 왕은 공주의 남편감을 사방으로 찾아봤지만 마땅한 사람을 금방 찾을 수가 없었습니다.

Mặt khác, hoàng đế Somolon đã tìm kiếm khắp nơi nhưng vẫn không thể tìm được ai thích hợp để làm chồng công chúa.

그래서 어느 날,

“공주가 혼자 있으니 너무 심심하겠군. 공주를 좀 만나 보고 와야지.”

하며 별궁으로 찾아갔습니다.

Vì thế, một ngày nọ, ông nói rằng:

-Công chúa ở một mình chắc sẽ rất buồn chán. Ta phải đi thăm con gái mới được.

Nói rồi, hoàng đế đi đến biệt điện, vừa đến ngài hết sức sững sờ:

그런데 이게 웬일일까요? 공주 옆에는 꿈 속에서 봤던 바로 그 사나이가 함께 있는 것이 아닙니까?

-Chuyện này là thế nào? Ngồi bên cạnh công chúa lúc này chính là người đàn ông mà vị hoàng đế đã thấy trong giấc mơ.

“아바마마, 저는 이분을 사랑합니다. 이분도 저를 사랑하고요. 그래서 우리는 결혼을 약속했답니다.”

Người đàn ông trông thấy vị hoàng đế, cất giọng chào:

-Kính thưa bệ hạ! Thần rất yêu công chúa. Công chúa cũng rất yêu thần và chúng thần đã nguyện được sống cùng nhau ạ!

“그런데 당신은 어떻게 해서 이 별궁에 들어올 수 있었소?”

-Thế nhưng, làm thế nào nhà ngươi có thể vào được biệt điện này?

솔로몬 왕은 그 일이 몹시 궁금했습니다.

Vị hoàng đế Somolon vô cùng thắc mắc.

사나이는 여행중에 사자 가죽을 둘러쓰고 잠을 자는데 큰 새가 이곳으로 물고 온 이야기를 해 주었습니다.

 Người đàn ông kể lại chuyện mình đang đi phiêu bạt và đang quấn lên mình tấm da sư tử để ngủ thì bị một con chim lớn đem đến nơi biệt điện này.

그 말을 들은 솔로몬 왕은,

“하나님의 뚯이 그렇다면, 일어날 일은 언제고 반드시 일 어나게 마련이군.” 라고 혼잣말을 하며 두 사람의 결혼을 허락했답니다.

Sau khi nghe người đàn ông kể lại, vị hoàng đế tự thì thầm:

-Nếu đã là ý của Chúa trời, chuyện đã định thì nhất định sẽ xảy ra.

 Sau đó, ngài đã cho phép người đàn ông kết hôn cùng công chúa.

  • 하나님 – CHÚA TRỜI

이스라엘은 오랜 세월 동안 로마의 지배를 받아 왔습니다.

Israel vốn đã bị đế chế Roma kiểm soát trong một thời gian dài.

그레서 탈무드에는 로마와 관련된 이야기들이 많습니다.

Vì thế, trong kinh Tamud của người Do Thái, có rất nhiều câu chuyện liên quan đến đế chế Roma.

한 로마 인이 유태인 랍비를 찾아와서 말했습니다.

Một người Roma nọ tìm đến một giáo sĩ Do Thái và đặt câu hỏi:

“당신들은 매일 하나님의 이야기만 하고 있는데, 도대체 그 하나님은 어디에 있습니까? 하나님이 어디에 계신지 내가 볼 수만 있다면 나도 하나님을 믿겠습니다.”

    -Ngày nào, ngài cũng kể về Chúa trời, vậy tóm lại vị Chúa trời ấy đang ở đâu? Nếu như ta có thể nhìn thấy Chúa trời đang ở đâu thì ta cũng sẽ tin vào Chúa trời.

랍비는 짓궂은 로마 인의 질문을 좋아하지 않았습니다. 그러나 로마 인의 질문에는 대답을 안 할 수가 없었지요.

Vị giáo sĩ Do Thái không thích câu hỏi của người Roma đó tí nào, thế nhưng không thể nào không trả lời được.

그래서 랍비는 로마 인을 데리고 밖으로 나가서, 하늘에 뜬 태양을 가리키면서,

“저 태양을 똑바로 쳐다보시오. 태양이 어떻게 생겼는지 아시겠소?”

하고 물었습니다.

Vì vậy, vị giáo sĩ Do Thái đã dẫn người Roma đó ra bên ngoài và chỉ vào mặt trời đang chiếu sáng trên bầu trời cao. Vị giáo sĩ nói:

-Xin hãy nhìn thẳng lên mặt trời đó. Người có biết mặt trời đã được tạo thành như thế nào hay không?

그러자 로마 인이 태양을 힐끗 쳐다보고는,

“그따위 엉터리 같은 말로 나를 속일 셈이오? 눈이  부셔서 어떻게 태양을 똑바로 쳐다볼 수 있겠소?” 라고 대들었습니다.

    -Ngài đang đùa ta đấy à? Mắt chói như thế này thì làm sao có thể nhìn thẳng vào mặt trời được?”

Người Roma trả lời.

랍비는 빙긋이 웃으면서,

“당신은 하나님께서 창조하신 만물 중에서 극히 작은 하나인 태양조차 제대로 볼 수 없소. 그러면서 어떻게 위대하신 하나님을 눈으로 보겠다고 하시오?” 라고 말했습니다.

Thế là vị giáo sĩ Do Thái cất tiếng cười lớn và nói:

            -Trong số vạn vật do Chúa trời tạo ra, chỉ một vật nhỏ nhoi như là mặt trời mà ngài còn không nhìn thấy được thì làm sao có thể nhìn thấy được Chúa trời vĩ đại qua con mắt ấy?

유태인을 곯려 주려던 로마 인은 아무 말도 못하고 돌아갈 수밖에 없었겠지요.

Nghe xong, người Roma vốn định chơi khăm vị giáo sĩ Do Thái ấy đã không thể nói được gì  thêm và đành phải quay về.

  • 6 일째에 만들어진 사람 – CON NGƯỜI ĐƯỢC TẠO RA VÀO NGÀY THỨ 6

유태인의 성경에 의하면 이 세계는 하루, 이틀, 사흘…, 이런 순서에 따라 차례로 만들어져서 6 일째 되는 날 완성되었다고 합니다.

Theo Thánh kinh của người Do Thái, thế giới vạn vật được tạo ra theo thứ tự 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày,… và được hoàn thành vào ngày thứ 6.

그런데 인간은 맨 마지막 날인 6 일째 되는 날 만들아졌답니다.

Thế nhưng trong 6 ngày ấy thì con người được tạo ra vào ngày thứ 6 là ngày cuối cùng trong chuỗi ngày ấy.

하나님은 왜 6 일째 되는 마지막 날에 인간을 만드셨을까요?

Vậy tại sao Chúa trời lại tạo ra con người sau cùng vào ngày thứ 6 ấy?

탈무드에 의하면, 하찮은 파리 한 마리라 할지라도 그것이 인간보다 먼저 만들어 진 데에는 큰뜻이 있다고 합니다. 그것은 인간이 자칫 오만해질까 봐서였다고 합니다.

Theo kinh Tamud, người Do Thái nói rằng dù chỉ là một con ruồi bé nhỏ đi nữa thì cũng mang ý nghĩa to lớn khi được tạo ra trước con người, bởi vì Chúa trời lo sợ con người quá tự mãn về mình.

그러니까, 사람은 누구나 자연에 대해 겸손해야 된다는 것을 가르쳐 주기 위해서가 아닐까요?

Và ý nghĩa của việc đó chẳng phải là mong muốn con người phải học được bài học là phải luôn khiêm tốn trước tự nhiên bao la hay sao?

  • 향료와 안식일 – HƯƠNG LIỆU VÀ NGÀY NGHỈ LỄ

어느 안식일  (토요일) 오후에 로마 황제가 아주 친하게 지내는 랍비의 집을 방문했습니다.

Vào buổi chiều của một ngày nghỉ lễ nọ của người Do Thái (Thứ bảy), một vị Hoàng đế Roma đến thăm nhà một người bạn rất thân với ngài là một giáo sĩ Do Thái (Rabbi).

갑자기 황제가 방문해 오자 랍비의 집에서는 미처 음식을 준비할 시간이 없었습니다.

그래서 집에 남아 있던 음식만으로 황제를 대접했습니다.

Vì hoàng đế đột nhiên bất ngờ đến thăm nhà nên người giáo sĩ Do Thái nọ đã không có thời gian để chuẩn bị thức ăn ngon tiếp đón chu đáo, thế là đành phải dùng lại những thức ăn còn dư trong nhà để tiếp đãi vị hoàng đế.

황제는 랍비의 집에서 매우 즐거운 시간을 보냈습니다.

Vị hoàng đế đã trải qua khoảng thời gian hết sức vui vẻ tại nhà người bạn của mình.

음식은 매우 맛이 있었고, 식탁 둘레에서는 다같이 노래를 합창하면서 탈무드에 나오는 이야기로 꽃을 피웠습니다.

Thức ăn rất ngon, còn trên bàn ăn thì có hai người bạn cùng nhau ca hát và nói chuyện rôm rả, cùng nhau tranh luận về những câu chuyện trong kinh Tamud.

황제는 무척 기뻐하면서,

“ 오늘은 무척 즐거웠소. 다음 수요일에 다시 찾아와도 되겠소?” 라고 물었습니다.

“황제께서 오신다면 언제든지 황영하겠습니다.”

랍비가 말했습니다.

Vị hoàng đế đã vô cùng vui và hỏi người bạn Do Thái của mình:

            -Hôm nay ta đã rất vui. Thứ tư tuần sau ta lại đến chơi nữa được chứ?

            -Thần lúc nào cũng hoan nghênh hoàng đế cả! Vị giáo sĩ Do Thái trả lời.

랍비의 집에서는 황제를 모시기 위하여 많은 준비를 했습니다.

Để có thể tiếp đón người bạn hoàng đế của mình tốt nhất, vị giáo sĩ đã chuẩn bị thật chu đáo.

요리사를 불러 맛있는 음식을 장만하고, 가장 좋은 식기에 음식을 차려 냈습니다.

Người cho mời cả đầu bếp riêng đến để chuẩn bị những món ăn ngon và còn dùng cả bộ đồ dùng để ăn mà mình yêu thích nhất để chuẩn bị bàn ăn.

지난 번에는 안식일이라 쉬었던 하인들도 그 날만은 모두 나와서 집 안팎을 깨끗이 청소하고, 줄을 지어 음식을 날라다 황제를 대접했습니다.

Lần trước vì là ngày lễ nên tất cả gia nhân trong nhà đều nghỉ lễ, nhưng lần này tất cả đều có mặt dọn dẹp từ trong ra ngoài sạch sẽ rồi chờ xếp hàng mang thức ăn ra tiếp đãi vị hoàng đế.

요리사조차 없어서 식어 버린 음식을 대접했던 지난 번과는 달리 정성이 담긴 요리가 계속 나왔습니다.

Khác với lần trước không có đầu bếp phải dùng thức ăn đã nguội để chiêu đãi hoàng đế, lần này những món ăn ngon chứa đựng tấm lòng chân thành của vị gia chủ liên tục xuất hiện để chiêu đãi người bạn hoàng đế của mình

그런데 황제는,

“오늘 요리는 지난 번 먹은 요리에 비해 맛이 적은 것 같소. 지난 번 먹은 요리에는 어떤 향료를 넣었기에 그렇게도 맛이 있었소?” 라고 물었습니다.

Thế nhưng vị hoàng đế lại bất ngờ hỏi người bạn của mình:

-So với món ăn lần trước thì món ăn hôm nay có vẻ không ngon bằng. Ngươi đã cho nguyên liệu gì vào món ăn lần trước mà lại có vị ngon đến như vậy?

“아무리 로마의 황제라 해도 그 날의 그 향료는 구하실 수 없을 겁니다.”

랍비가 대답했습니다.

Nghe thế, vị giáo sĩ Do Thái trả lời:

-Cho dù có là hoàng đế Roma cũng không thể kiếm được loại hương liệu của ngày hôm đó đâu ạ.

“천만의 말씀이오. 나는 어떤 향료라도 다 구할 수 있소. 그러니까 그게 어떤 향료인지만 가르쳐 주시오.”

로마 황제는 거드름을 피우며 말했습니다.

Nghe thế vị hoàng đế Roma làm ra vẻ kiêu căng nói:

            -Ngươi có quá lời không? Cho dù là loại hương liệu nào thì ta cũng sẽ có thể tìm được. Ngươi chỉ cần chỉ cho ta biết loại nguyên liệu đó là gì.

“아닙니다, 폐하께서 아무리 로마의 황제라 하셔또, 그 향료는 어떤 수단으로도 구하실 수 없습니다. 그것은 바로 유태인만이 지니고 있는 안식일이라는 이름의 향료이니까요.”

랍비가 말했습니다.

Vị giáo sĩ trả lời:

            -“Bẩm không được đâu ạ. Cho dù ngài là hoàng đế Roma chăng nữa, bằng bất cứ phương tiện gì đi chăng nữa cùng sẽ không thể tìm ra được đâu ạ, vì đó chính là loại hương liệu có tên là “ngày nghỉ tế lễ” của người Do Thái mà chỉ người Do Thái mới có được thôi ạ.”

유태인들은 세계 어느 나라에 가서 살든 안식일을 꼭 지킵니다.

Người Do Thái cho dù có đi đến bất cứ nơi đâu, bất cứ đất nước nào trên thế giới cũng đều nhất định phải giữ gìn ngày lễ truyền thống này.

 안식일은 일주일의 마지막 날인 토요일로 하나님이 이 세상을 창조하신 마지막 날이라 믿기 때문입니다. 그래서 안식일이 되면 몸을 깨끗이 씻고, 예배를 보며 기도를 합니다.

 Bởi vì người Do Thái tin tưởng rằng ngày tế lễ của người Do Thái là ngày thứ bảy chính là ngày cuối cùng trong một tuần và cũng là ngày cuối cùng mà Chúa trời sáng tạo ra thế gian rộng lớn này. Vì thế đến ngày nghỉ tế lễ ấy, người Do Thái phải tắm rửa sạch sẽ, làm lễ cúng và cầu nguyện.

 아무리 급한 일이 있어도 안식일에는 결코 일을 하지 않는답니다.

Cho dù là có chuyện gấp như thế nào đi chăng nữa, vào ngày lễ, nhất định sẽ không làm việc mà chỉ cúng và tế lễ.

  • 술의 기원 – CỘI NGUỒN CỦA RƯỢU

이 세상 최초의 인간이 포도나무를 심고 있을 때 악마가 찾아왔습니다. 그리고는,

“당신은 지금 무슨 일을 하고 있슴니까?” 라고 물었습니다.

Vào thuở sơ khai đầu tiên trên thế giới này, lúc con người đang trồng cây nho thì quỷ dữ tìm đến và hỏi con người rằng:

            -Bây giờ các ngươi đang làm gì thế?

“나는 지금 아주 좋은 나무를 심고 있는 중입니다.”

     -Bây giờ ta đang trồng một loại cây rất là tốt.

“그래요? 이 나무는 처음 보는 나무인데, 왜 촣은 나무라고 합니까?”

-Vậy ư? Đây là loại cây lần đầu ta thấy, sao các ngươi lại nói nó là loại cây tốt?

“이 나무에서는 아주 달고 맛있는 열매가 열립니다. 그리고 이 즙을 마시면 누구나 다 행복하게 되지요.”

        -Vì loại cây này sẽ cho ra các quả vừa ngon lại vừa ngọt. Và loại nước ép từ loại quả của cây này, bất cứ ai uống đều cũng sẽ thấy thật hạnh phúc.

인간은 포도나무에 대해 자세히 설면해 주었습니다.

Con người giải thích cặn kẽ và chi tiết về cây nho cho quỷ dữ nghe.

인간의 말을 들은 악마는,

“그거 참 좋은 나무로군요. 나도 한몫 끼워 주시오. 이 나무가 자라 좋은 열매를 맺도록 도움을 주고 싶소.” 라고 했습니다.

Sau khi nghe những lời của con người, quỷ dữ liền nói:

                            -Đúng thật là một loại cây tuyệt vời. Ta cũng muốn đóng góp một phần trồng cây. Ta muốn giúp cho cây này lớn nhanh và cho nhiều quả ngọt.

“좋습니다. 당신이 내 일을 도와 준다면, 이 나무의 열매를 나누어 드리겠소.”

인간이 말했습니다.

-Vậy thì tốt quá. Nếu ngươi giúp cho công việc của ta thì ta sẽ chia cho ngươi quả của cây này.”

그러자 악마는 양과 사라와 원숭이와 돼지를 데리고 와서 그 동물을 죽인 다음 그 피를 포도나무의 거름으로 사용헸습니다. Và thế là quỷ dữ đã dẫn đến nào là cừu, sư tử, khỉ rồi heo đem đến rồi giết các con vật ấy, lấy máu của chúng làm phân bón bón cho cây nho.

포도주라는 술은 이렇게 해서 생겨났다고 합니다.

Người ta nói rượu nho đã được hình thành như vậy.

 그래서 술은, 처음 마시기 시작할 때는 양처럼 온순하고 조금 더 마시면 사자처럼 사나와지고, 조금 더 마시면 원숭이처럼 춤추고 고함을 지르며, 더 많이 마사면 돼지처럼 토하고 뒁굴면서 온몸이 더러워지는데 이 것은 포도나무를 심을 때 악마가 인간에게 준 선물 때문이 라고 합니다.

Vì thế, rượu khi mới vừa uống, sẽ khiến ta có cảm giác nhẹ nhàng và dịu dàng giống như cừu, uống thêm chút nữa thì sẽ trở nên lôi thôi lếch thếch như sư tử, uống thêm chút nữa sẽ bắt đầu nhảy múa và gào thét như khỉ và nếu uống thêm nữa thì sẽ nôn ói, lăn qua lăn lại và trở nên dơ bẩn như heo. Và người ta nói rằng điều này chính là món quà mà quỷ dữ tặng cho loài người khi trồng cây nho.

  • 영원한 생명 –  CUỘC SỐNG BẤT TỬ

어느 랍비가 시장을 찾아갔습니다. 그리고 큰 소리로 말하기를,

“이 시장 안에서 영원한 생명을 가진 시람이 있습니까?” 라고 말했습니다.

Một ngày nọ có một vị giáo sĩ Do Thái (Rabbi) đi ra chợ và lớn tiếng gọi lớn:

            -Ở chợ này có ai là người có cuộc sống bất tử hay không ạ?

그러자 시장 안의 사람들은 서로 얼굴을 쳐다보며 누가 영원한 생명을 가지고 있는지 살펴보았습니다.

Ngay lập tức, cả chợ ai nấy cũng ngó nghiêng nhìn nhau tìm xem ai là người có cuộc sống bất tử.

 그러나 영원한 생명을 가지고 있을 만한 사람은 아무도 없었습니다.

Thế nhưng chẳng có người nào trông có vẻ là có cuộc sống bất tử cả.

“랍비님, 우리는 누가 영원한 생명을 가진 사람인지 알 수 없습니다. 이 시장 안에 정말 그런 분이 계실까요?”

시장 사람들은 랍비 곁으로 몰려들면서 물었습니다.

Thế là mọi người trong chợ quay sang hỏi vị giáo sĩ Do Thái đó:

        -Thưa ngài, chúng tôi không thể nhìn ra được ai là người có cuộc sống bất tử được. Thế trong cái chợ này thật sự có người như thế hay sao?

랍비는,

“그렇소. 나는 이 시장 안에서 영원한 생명을 가진 두 사람을 찾아냈소.” 라고 대답했습니다.

Vị giáo sĩ trả lời:

        -Đương nhiên là có chứ. Ta đã tìm ra được trong chợ này có đến hai người có cuộc sống bất tử.

“영원한 생명을 가진 사람이 둘이나 있습니까?”

    -Ngài nói là có đến hai người có cuộc sống bất tử ư?

“그렇게 홀륭한 사람이 우리 곁에 있었다니, 그들은 누구입니까?”

    -Có người như thế ở bên cạnh chúng ta mà chúng ta không hề biết ư, đấy là ai vậy ạ?

사람들은 서로서로 살펴보며 물었습니다.

Mọi người ai nấy đều nhìn nhau ríu rít xì xầm bàn tán làm huyên náo cả khu chợ.

그러자 랍비는 시장 공터에 서 있는 두 사람을 가리키면서,

“저기 두 사람이 보이지 않습니까? 저 두 사람이야말로 영원한 생명을 가진 착한 사람이오.” 라고 말했습니다.

Thế là vị giáo sĩ Do Thái chỉ vào hai người đang đứng ở chỗ khoảng đất trống trong chợ rồi nói:

        -Các vị không nhìn ra hai người đằng kia hay sao? Hai người đó chính là hai con người hiền lương có cuộc sống bất tử.

그러자 랍비 곁에 둘러섰던 사람들은 공터에 서 있는 두 사람에게로 뛰어가서,

“당신들 두 사람은 무슨 장사를 합니까?” 라고 물었습니다.

Nghe vậy, những người đứng xung quanh vị giáo sĩ đều chạy đến chỗ hai người đang đứng ở khoảng đất trống và hỏi:

            -Thế hai ông buôn bán gì thế?

“우리는 어릿광대랍니다. 외롭고 쓸쓸한 사람들에게는 옷음을 선사하고, 다투는 사람들에게는 평화를 가져다 주는 광대랍니다.”

-Chúng tôi chỉ là những người diễn hề, chúng tôi là những chú hề mang đến  tiếng cười cho những người đang cô đơn và cảm thấy giá lạnh, chúng tôi cũng muốn đem đến hòa bình cho những người đang cãi nhau.

두 사람은 어리둥절해서 대답했습니다.

Hai diễn viên hề liền trả lời với vẻ bàng hoàng, lung túng.

그 말을 들은 사람들은 다시 랍비에게 가서 물었습니다.

“랍비님, 저 두 사람은 가장 가난하고 천한 어릿광대입니다. 그런데 어째서 저 두 사람이 영원한 생명을 가졌다고 하십니까?”

Nghe vậy, mọi người trong chợ lại chạy về phía vị giáo sĩ Do Thái và hỏi ngài:

        -Thưa ngài, hai người đó vừa nghèo lại rất bình thường chẳng có vẻ gì nổi bật cả, vậy cớ sao hai người đó lại có thể có được cuộc sống bất tử?

“그들은 모든 사람들에게 즐거움을 선사하기 때문입니다. 사람들에게 즐거움보다 더 큰 선물이 있습니까?”

-Bởi vì họ là những người đã mang tặng niềm vui đến cho tất cả mọi người. Trên đời này, đối với con người, còn có món quà nào to lớn hơn cả niềm vui hay sao?

랍비의 말을 들은 시장 사람들은 비로소 두 사람의 어릿광대에게 고개를 숙였답니다.

Sau khi nghe những lời giảng giải của vị giáo sĩ, đến tận lúc này, mọi người trong chợ ai nấy cũng đều cúi đầu trước hai con người ấy.

  • 남자는 일곱 번 변한다 – ĐÀN ÔNG 7 LẦN BIẾN ĐỔI

탈무드는 남자의 일생을 일곱 단계로 나누고 있습니다.

Theo kinh Tamud thì cuộc đời của một người đàn ông sẽ được chia ra làm 7 giai đoạn:

  1. 한 살 때는 임금님 – 모든 사람들이 임금님을 받들듯이 달래 주고 정성껏 떠받들어 준다. Lúc 1 tuổi thì giống như một vị hoàng đế – tất cả mọi người ai nấy đều nâng niu, chăm sóc như phục vụ cho một vị vua và hết lòng đưa lên hàng đầu quan trọng hơn tất cả.
  2. 두 살 때는 돼지 – 진흙탕 속이 더러운 줄도 모르고 마구 뛰어다닌다. Lúc 2 tuổi thì như con lợn cứ nhong nhong chạy quanh mà cũng không biết rằng bên trong bùn đất vô cùng dơ bẩn.
  3. 열 살 때는 새끼양 – 옷고 떠들어 대며 즐겁게 뛰어논다. Lúc 10 tuổi thì như chú cừu con chạy chơi vui vẻ cười nói làm huyên náo cả lên.
  4. 열 여덟 살 때는 사자 – 겁없이 힘을 자랑하고 싶어한다. Lúc 18 tuổi thì như sư tử muốn tỏ rõ uy lực sức mạnh của mình chẳng biết sợ ai.
  5. 결혼하면 당나귀 – 가장이라는 무거운 짐을 지고 터벅터벅 걸어야 한다. Lúc kết hôn rồi thì như con lừa và việc quan trọng nhất là phải vừa vác hành lý nặng nề trên lưng vừa bước đi khệnh khạng.
  6. 중년 때는 개 – 가족들을 부양하기 위하여 남들에게 호의를 구걸한다. Vào tuổi trung niên thì như loài chó đi hành khất lòng hảo tâm của người khác để làm trụ cột chống đỡ cho cả gia đình.
  7. 노년에는 원숭이 – 다시 어린아이처럼 되지만 아무도 관심을 기울여 주지 않는다. Lúc về già thì lại như chú khỉ, tuy giống như được trở lại làm một đứa trẻ con nhưng lại chẳng còn tâm trí để quan tâm đến bất cứ việc gì.
  • 자루 – CÁI CÁN RÌU

처음으로 쇠가 만들어졌을 때였습니다.

Câu chuyện xảy ra vào thuở ban đầu lúc sắt vừa mới được tạo ra.

이 세상의 나무들은 쇠를 보자마자 모두가 겁에 질려 벌벌 떨었습니다.

Lúc ấy, những loài cây trên thế gian này hễ nhìn thấy sắt tất cả đều sợ hãi và run lấy bẩy.

이것을 보신 하나님이 나무들에게 물었습니다.

Chúa trời thấy thế liền hỏi các loài cây rằng:

“나무들아, 너희는 무엇이 무서워서 그렇게 벌벌 떨고 있느냐?”

-Loài cây các ngươi có chuyện gì mà lại run lấy bẩy như thế?

“저 쇠를 보셔요. 쇠는 도끼가 되어 나무를 모두 찍어 버릴 테니, 얼마나 무서운 일입니까?”

     -Xin người hãy nhìn cái sắt đằng kia. Nếu sắt trở thành cái rìu thì tất cả các loài cây sẽ bị chặt xuống hết, đó không phải là việc đáng sợ hay sao ạ?

나무들의 말을 들은 하나님은 껄껄 웃으면서,

“어리석은 나무들아, 무엇을 걱정하느냐? 쉬가 제 아무리 날카로운 도끼가 된다 해도 너희들이 자루가 되어 주지 않는다면, 어떻게 너희들을 해칠 수 있겠느냐?” 라고 말했습니다.

Chúa trời nghe xong những lời các loài cây nói liền cười to:

    -Ôi chao, các loài cây ngốc nghếch, có gì mà các ngươi phải lo chứ? Nếu cho dù sắt có trở thành cái rìu sắc bén như thế nào đi nữa mà nếu các ngươi nhất quyết không trở thành cán rìu thì chẳng phải chúng sẽ không thể làm hại đến các ngươi nữa hay sao?

  • 선량한 사람 – NGƯỜI LƯƠNG THIỆN

이 세상에는 반드시 필요한 네 가지의 중요한 것이 있습니다. 그것은 금, 은, 동, 철입니다.Có 4 thứ quan trọng nhất định cần thiết cho thế gian này, đó chính là vàng, bạc, đồng và sắt.

 그러나 이 네 가지는 꼭 필요하긴 하지만 그것이 없는 경우 대용품을 찾을 수가 있습니다.

Thế nhưng có điều là tuy bốn thứ này vô cùng cần thiết nhưng vẫn có thể tìm thấy vật thay thế trong trường hợp không tìm được chúng.

그렇지만 이 세상의 어떤 것으로 대신하거나 바꾸어 놓을 수 없는 것이 있습니다.

Nhưng trên đời này, vẫn có thứ mà không một ai có thể thay thế hay có thể thay đổi được.

 그것은 착하고 선량한 사람입니다.

 Đó chính là người hiền lành và lương thiện.

탈무드에 의하면 선량한 사람이란 야자나무처럼  무성하고, 레바논의 삼나무처럼 늠름하게 높이 솟아 있는 것이라고 합니다.

Theo kinh Tamud, người lương thiện được ví như sự rậm rạp um tùm giống cây cọ dừa và cao vút trời xanh một cách oai vệ như cây bách tán của Liban.

야자나무는 한번 잘라 내면 다시 움트기까지 4년이 걸리지만, 레바논의 삼나무는 아주 먼 곳에서도 보일 만큼 크게 자란답니다.

Cây cọ dừa nếu một lần chặt đi thì mất đến 4 năm cho đến lúc nảy mầm lại nhưng cây bách tán của Liban thì vô cùng to lớn mà từ nơi xa vẫn có thể nhìn thấy được.

______________

Mời các bạn tham khảo ngay Khóa học cho người mới bắt đầu:

________________
Mọi chi tiết vui lòng liên hệ TƯ VẤN
FACEBOOK: https://www.facebook.com/kanataviethan/
Cơ sở: 
  • Trụ sở chính: 384/19 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3. 028.3932 0868/ 3932 0869, 0931 145 823
  • Cơ sở 1: 72 Trương Công Định, P.14, Quận Tân Bình , 028.3949 1403 / 0931145 823
  • Cơ sở 2: Số 18 Nội khu Mỹ Toàn 2, khu phố Mỹ Toàn 2, H4-1, Phường Tân Phong, Quận 7, 028.6685 5980
  • Cơ sở 3: 856/5 Quang Trung, P8, Gò Vấp (Ngay cổng sau Trường THPT Nguyễn Công Trứ, hẻm đối diện công ty Mercedes) 028.3895 9102
  • Cơ sở 4: 144 Đinh Tiên Hoàng, P.1, Quận Bình Thạnh, 028.6270 3497
  • Cơ sở 5: 193 Vĩnh Viễn, Phường 4, Quận 10, 028.6678 1913
0 0 bình chọn
Xếp hạng bài viết
Đăng ký
Thông báo của
guest
Nhập họ tên (bắt buộc)
Email của bạn (bắt buộc)

1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Bình chọn nhiều
Phản hồi trong dòng
Xem tất cả bình luận
Trân Đỗ
Trân Đỗ
3 năm cách đây

Những quan niệm này thật thú vị, vừa học tiếng Hàn vừa biết thêm một nền văn hóa khác, hay ghê

1
0
Click vào đây để bình luận hoặc gửi yêu cầu bạn nhé!x