Luyện dịch song ngữ: NGƯỜI DO THÁI – CHƯƠNG 6: TRÍ TUỆ VÀ SỰ THÔNG THÁI– P2

  • 땅에 묻은 돈 – CÂU CHUYỆN VỀ MÓN TIỀN CHÔN DƯỚI ĐẤT

어느 날 시골에 사는 상인이 물건을 사러 큰 도시로 왔습니다.

Có một thương nhân sống ở một ngôi làng nọ, vào một ngày kia ông ta đi vào thành phố để mua hàng hóa.

상인은 며칠 후 장날이 되면 물건을 싸게 살 수 있다는 말을 듣고 장날까지 기다리기로 했습니다.

Vị thương nhân nghe mọi người nói là còn mấy ngày nữa thì sẽ đến ngày họp chợ, vì vậy ông ta quyết định đợi đến ngày đó mới mua hàng. Vì vào ngày họp chợ người ta thường bán hàng hóa với giá rất rẻ.

그래서 아무도 없는 숲 속에 가서 자기가 지니고 있던 돈을 모두 땅 속에 묻었습니다.

Ông ta đi vào một khu rừng không có người qua lại rồi chôn toàn bộ số tiền của mình xuống đất.

이튿날 상인이 그곳에 가보니 땅 속에 묻은 돈이 없어져 버렸습니다.

 Hai ngày sau, ông ta quay trở lại khu rừng để lấy số tiền đó, nhưng toàn bộ số tiền đã biến mất.

 장삿군은 아무리 생각해 봐도 누가 돈을 가져갔는지 알 수가 없었습니다.

Vị thương nhân nghĩ mãi cũng không thể biết được ai đã lấy mất số tiền của mình.

그는 이곳저곳을 자세히 살펴봤습니다.

Vì vậy ông ta tìm kĩ lại một lần nữa ở chổ này chổ kia thì phát hiện thấy có một ngôi nhà nhỏ ở gần đó.

그러자 숲 한쪽에 외딴 집 한 채가 있고 그 집의 벽에 구멍이 뚫려 있는 것을 알았습니다.

Đến gần ngôi nhà thì ông ta thấy có một cái lỗ nhỏ trên tường.

아마도 그 집에 살고 있는 사람이 그가 돈을 파묻고 있는 것을 그 구멍으로 몰래 보고 꺼내 간 것이 틀림없을 것 같습니다.

Vị thương nhân suy nghĩ chắc chắn là người sống ở đây đã lén nhìn thấy ông ta chôn tiền qua cái lỗ nhỏ này và đã lấy trộm đi toàn bộ số tiền của ông ta.

상인은 아무것도 모르는 체하고 그 집에 살고 있는 사람을 찾아가 물어 보왔습니다.

Nghĩ vậy rồi vị thương nhân giả vờ như mình không biết gì và đi tìm gặp chủ nhân của ngôi nhà.

“저는 시골에서 온 상인입니다. 당신은 도시에 살고 있으니까 많은 것을 아시겠지요.

“Chào ông, tôi là một thương nhân sống ờ làng kia. Còn ông thì hẳn là người sống ở thành phố này nên chắc thông hiểu nhiều thứ.

저에게 좋은 지혜를 가르쳐 주셔요.

Vậy ông có thể chỉ cho tôi biết tôi phải làm thế nào không?

저는 이 도시에 물건을 사러 왔는데, 두 개의 지갑을 가지고 왔습니다.

 Chuyện là thế này: tôi đến đây để mua hàng hóa, lúc đi thì tôi có mang theo hai túi tiền.

 하나는 5 백 개의 은화가 들어 있고, 다른 하나에는 8백 개의 은화가 들어 있습니다.

Một túi thì đựng 500 lạng bạc, một túi thì đựng 800 lạng bạc.

5백 개의 은화가 들어 있는 지갑은 아무도 모르는 곳에 파묻었습니다.

Tôi đã chôn cái túi đựng 500 lạng bạc ở một nơi không ai biết rồi.

그런데 8백 개의 은화가 든 지갑도 파묻는 것이 좋을까요?. 마니면 며관에 맡겨 두는 것이 좋을까요?“ 

Còn cái túi 800 lạng bạc này ông nghĩ tôi có nên chôn đi không? Hay là cứ để ở quán trọ thì tốt hơn?

그러자 집 주인은,

“내가 만약 당신이라면 아무도 믿지 않겠습니다.  그리고 먼저 지갑을 파묻었던 자리에 함께 파묻겠습니다.” 라고 대답했습니다.

Nghe xong thì chủ nhân ngôi nhà nói rằng: “ Nếu tôi mà là ông thì tôi sẽ không tin ai hết. Tôi sẽ chôn cái túi 800 lạng bạc ở cái nơi tôi chôn cái túi kia.”

상인이 떠나자 집 주인은 자기가 훔쳤던 지갑을 몰래 파묻었던 자리에 도로 묻어 두었습니다.

Nghe xong lời khuyên của người chủ nhà, thì người thương nhân cảm ơn rồi rời đi.

Ngay khi người thương nhân rời đi thì người chủ nhà vội vàng chôn túi tiền mình đã trộm vào lại chổ cũ.

상인은 물래 숨어서 엿보다가 집 주인이 지갑을 묻고 돌아간 뒤 자기의 지갑을 무사히 찾을 수 있었습니다.

 Người thương nhân giả vờ đi nhưng thật ra lén núp ở một nơi khác để quan sát. Nên sau khi người chủ nhà chôn số tiền lại rồi đi thì ông ta đã tìm lại được số tiền bị mất của mình một cách vô sự.

만약 돈을 잃어버린 상인이 큰 소리로 떠들었다면 어떻게 했을까요?

Lời Bình: Giả sử như người thương nhân bị mất tiền rồi làm ầm ĩ lên thì sẽ như thế nào?

그리고 집 주인에게 다짜고짜 내 돈 내놓으라고 옥박질었다면 돈을 찾을 수 있었을까요?

Hay nếu như ông ta nói với người chủ nhà là hãy trả lại tiền cho mình thì liệu ông ta có tìm lại được số tiền bị mất hay không?

돈을 찾기는커녕, 땅 속에 귀중한 돈을 묻었마 하여 바보 취급을 받거나 애매한 사람에게 누명을 씌운다는 구실로 흠씬 두들켜 맞았을 뿐 돈을 다시 찾을 수는 없었을 겁니다.

Chỉ riêng cái việc chôn tiền ở dưới đất là đã bị mọi người xem là ngu ngốc rồi, không chỉ vậy có khi còn bị ghép vào tội vu khống người khác. Thì nói gì đến việc kiếm lại được tiền, có khi còn bị phạt đánh nữa là đằng khác.

지혜란 이처럼 자그마한, 누구나 생각할 수 있는 일에서 이루어집니다.

Trí tuệ có được không phải từ những việc lớn lao mà từ những việc nhỏ nhặt hàng ngày mà bất cứ ai cũng có thể nghĩ ra được.

  • 장님과 등불 – NGƯỜI ĐÀN ÔNG MÙ VÀ CÂY ĐÈN

캄캄한 밤에 한 사나이가 더듬더더듬 길을 걷고 있었습니다.

Vào một đêm tối tăm, có một người đàn ông đang mò mẫm đi trên đường.

그러자 저쪽 편에서 등불을 든 사람이 나타났습니다. 그런데 그 사람은 앞을 못 보는 장님이었습니다.

사나이는 이상하게 생각되었습니다.

Cùng lúc đó, có một người đi theo hướng ngược lại, trên tay có cầm theo một cây đèn, nhưng mà người đó lại là một người mù. Người đàn ông thấy lạ, bèn hỏi:

그래서,

“여보시오, 당신은 앞 못 보는 장님인데, 왜 등불을 들고 다닙니까?” 하고 물었습니다.

“Ông gì đó ơi, ông là một người mù, có thấy gì đâu, vậy cớ gì ông lại mang đèn mà đi?”

 장님은 별걸 다 붇는다는 듯이,

“내가 등불을 들고 걷고 있으면 눈뜬 사람이 내가 걷고 있다는 걸 알기 때문이오” 라고 태연히 대답했습니다.

Người mù bèn trả lời: “ Tôi cầm đèn đi để những người sáng mắt như ông nhìn thấy tôi.

캄캄하게 어두운 밤, 아무것도 보이지 않는 길을 걷다 보면 서로 부딪쳐 다칠 수도 있겠지요?

Trong đêm tối tăm như vậy, cái gì cũng chẳng nhìn thấy được, chẳng phải là dễ va vào nhau hay sao?”

밤길에 등불을 든 장님의 마음, 그것은 스스로 자신을 지키려는 지혜이기도 합니다.

Lời Bình: Suy nghĩ để biết cách tự bảo vệ bản thân mình, cái đó cũng chính là TRÍ TUỆ.

  • 일곱 버째 사나이 – NHÀ THÔNG THÁI THỨ BẢY

어떤 랍비에게 중요한 무제가 새겼습니다. 그래서 그는 가장 현명한 여섯 사람을 초대해서 의논하기로 했습니다.

Có một vị giáo sĩ nọ cần phải giải quyết một việc quan trọng, vì vậy ông ta quyết định mời sáu nhà thông thái nhất đến để cùng bàn bạc và thảo luận.

다음갈 아침, 랍비는 초대한 여섯 사람을 위해 의자와 식탁을 준비하고 좋은 음식도 차렸습니다.이윽고 시간이 되자 초대받은 손님들이 찾아왔습니다.

Sáng ngày hôm sau, ông ta cho chuẩn bị bàn ghế, đồ ăn thức uống sẵn để đón tiếp sáu vị khách quý.

그런데 이게 웬일일까요?  초대한 사람은 여섯인데, 찾아온 사람은 일곱 사람이었습니다.

Thế nhưng thay vì có sáu người thì lại có tới bảy người đến.

더군다나 준인인 랍비는 초대한 사람의 얼굴을 모르기 때문에 일곱 번째의 불청객이 누구인지 가려낼 수가 없었습니다.

Thêm vào đó, vị giáo sĩ cũng không biết mặt sáu nhà thông thái mình đã mời đến nên không biết được ai là người không được mời.

 랍비는 몹시 난처했습니다.

 Vị giáo sĩ hết sức bối rối, không biết phải xử trí làm sao.

그래서 손님들에게 이렇게 말하지 않을 수가 없었습니다.

Vì vậy đành phải nói như sau với những người khách:

“여러분, 정말 미안합니다. 제가 오늘 초대하신 분은 여섯 분입니다. 그런데 이 자리에는 지금 일곱 분이 계십니다. 누군가 한 분은 제가 초대한 분이 아닌데, 초대받지 않으신 분은 미안하지만 돌어가 주셔야 하겠습니다.”

“Thưa các ông. Tôi thật sự lấy làm tiếc nhưng mà hôm nay tôi chỉ mời sáu vị đến thôi. Nhưng mà bây giờ ở đây có tất cả là bảy vị. Vậy thì vị nào không phải là người tôi đã mời đến thì xin hãy quay về cho.”

랍비의 말이 끝나자 그 중의 한 사람이 조용히 일어나서 밖으로 나갔습니다.

Vị giáo sĩ vừa dứt lời thì có một người yên lặng đứng dậy và đi ra ngoài.

그는 초대받은 사람들 중에서 가장 슬기롭고 현명한 사람이었습니다.

Ông ta chính là người thông thái và trí tuệ nhất trong số những người được vị giáo sĩ kia mời trước đó.

그 사람은 초대받은 사람일 텐데 왜 나갔을까요?

그는 초대받지 않은 일곱 번째 사람을 위해 스스로 나간것입니다.

Lời Bình: Theo các bạn vị đó là người được mời đến vậy tại sao ông ta lại ra về? – Chính vì người thứ bảy không được mời, chính vì người đó nên ông ta đã tự ý ra về.

만약 그 자리에서 아무도 일어나서 나가지 않고, 초대받지 않은 일곱 번째 사람이 가려졌다면, 그 사람은 얼마나 창피하고 부끄러운 일을 당했을까요?

Giả sử như lúc đó không có ai đứng dậy rời đi, vậy thì phải chọn ra một người là người thứ bảy không được mời. Người được chọn không phải sẽ xấu hổ và bị mất mặt lắm hay sao?

지혜와 슬기란 이처럼 다른 사람의 어려움을 못 본 체하지 않는 데에서 더욱 크게 빛나는 것입니다.

Giống như câu chuyện trên, trí tuệ và sự thông thái càng tỏa sáng lấp lánh và đẹp đẽ hơn khi chúng ta không vô tình làm ngơ trước khó khăn của người khác.

  • 세 가지의 지혜 – BA VIỆC LÀM TRÍ TUỆ

지혜란 어느 날 갑자기 만들어지는 것이 아닙니다.

Trí tuệ  không phải là thứ đột nhiên có được chỉ trong một ngày.

많은 책을 읽고 공부를 하고, 깊이 있게 생각하는 사람이라야 좋은 지혜를 산직할 수 있습니다.

Phải đọc nhiều, học nhiều, và suy nghĩ sâu sắc mới có thể tích lũy được trí tuệ.

그래서 지혜란 공부하고 훈련하는 데에서 만들어진다고 말할 수 있습니다.

Vì vậy có thể nói rằng: “ Trí tuệ được hình thành bởi sự dạy bảo, học hỏi và luyện tập.”

탈무드에 기록된 이야기입니다.

Sau đây là câu chuyện được ghi chép trong sách TALMUD.

예루살렘에 사는 한 사람이 먼 여행을 떠났습니다.

Ngày xưa có một người sống ở thành Jerusalem đi du lịch đến một nơi rất xa.

그는 여러 도시를 지나 힘든 여행을  하다가 어느 작은 도시에서 병이 들었습니다.

 Ông ta có một chuyến du lịch hết sức vất vả, đi qua nhiều thành phố lớn và khi ông ta đặt chân đến thành phố nhỏ nọ thì lâm bệnh.

 그는 자신의 죽음이 가까운 것을 알고 여관 주인을 불러 말했습니다.

Ông ta biết rằng bản thân mình khó qua khỏi nên gọi người chủ quán đến căn dặn thế này:

“나는 곧 죽게 될 것 같소. 내가 죽었다는 것을 알면 예루살렘에 있는 아들이 찾아올 텐데, 내 소지품을 모두 아들에게 주시기 바랍니다.

 “ Chắc tôi sắp đi xa rồi. Đứa con trai đang ở Jerusalem của tôi nếu biết tôi qua đời chắc chắn sẽ tìm đến đây.Khi con tôi đến đây mong ông hãy đưa toàn bộ hành lí của tôi cho cháu nó.

그러나 물건을 내주기 전에 내 아들이 세 가지 지혜로운 일을 하지 못하거든 내 소지품을 하나도 주지 마시고 모두 당신이 가저십시오.

Nhưng trước khi đưa hành lí hãy yêu cầu cháu nó làm ba việc trí tuệ. Nếu con trai tôi không làm được thì ông đừng giao hành lí của tôi cho cháu mà cứ giữ lấy để dùng.

나는 여행을 떠나올 때, 아들에게 말해 둔 게 있습니다. 내 유산을 상속받기 위해서는 세 가지 지혜로운 행동을 해라. 그렇지 못하면 내 유산은 하나도 물려받을 수 없다고 말했습니다.”

Tôi cũng từng nói với con trai tôi rồi, khi tôi đi du lịch về mà vẫn chưa làm được 3 việc trí tuệ thì đừng mong nhận được tài sản của tôi.”

나그네의 말을 들은 여관 주인은,

“알았습니다. 틀림없이 약속을 지키겠습니다.” 하고 말했습니다.

 “Tôi biết rồi, tôi sẽ làm đúng như lời ông nói.” Người chủ quán trả lời.

나그네는 여관 주인을 믿고 몸에 지니고 있던 귀중품을 모두 맡겼습니다. 그리고 며칠 후, 나그네는 눈을 감았습니다.

Người đàn ông yên lòng, giao toàn bộ hành lí quý giá của mình cho ông chủ quán trọ, và mấy ngày sau thì qua đời.

유태인의 관습에 따라 여관 주인은 나그네의 장례를 잘 치러 주었습니다.

Người chủ quán trọ đã làm tang lễ tươm tất cho người khách theo đúng phong tục của người Do Thái.

나그네의 죽음은 마을 사람들에게 널리 알려졌습니다.

Tin về cái chết của ông lão nhanh chóng lan khắp thành phố.

그래서 마을 사람들은 예루살렘에서 누가 찾아오든지 나그네가 어느 여관에서 죽었는지 일체 가르쳐 주지 않기로 했습니다.

Mọi người ở đó quyết định rằng nếu có ai đến từ thành Jerusalem thì sẽ không nói cho biết quán trọ mà ông lão đã qua đời.

얼마 후 예루살렘에서 나그네의 아들이 이 도시로 찾아왔습니다.

Mấy ngày sau, người con trai tìm đến thành phố.

아들은 마을 사람에게 예루살렘에서 온 아버지가 어느 집에서 돌아가셨는지 물었습니다. 그러나 모두가 하나 같이 모른다고 말했습니다.

Anh ta hỏi những người ở đó về quán trọ mà cha mình đã qua đời nhưng tất cả đều trả lời là không biết.

 아들은 어떻게 해야 아버지가 돌아가셨던 집을 찾을 수 있을까 하고 깊이 생각했습니다.

Anh ta suy nghĩ nhiều về việc phải làm như thế nào thì mới tìm được quán trọ nơi cha mình mất.

그때 마침 나무장수가 장작을 한짐 지고 지나가고 있었습니다.

Đúng lúc đó có một người tiều phu vác một bó củi đi ngang qua.

“여부세오, 나는 좀 봅시다.”

아들은 나무장수를 볼렸습니다.

“Ông ơi cho tôi xem củi với” Anh gọi người tiều phu.

“그렇소. 내가 장작 값을 드릴 테니까 이 장작을 예루살에서 온 나그네가 죽은 여관으로 배달해 주시오.”

“Tôi sẽ mua bó củi này. Ông hãy mang nó đến quán trọ mà người đàn ông đến từ Jerusalem đã qua đời mấy hôm trước.

“알았습니다.”

돈을 받은 나무장수는 나그네가죽은  여관으로 장작을 지고 갔습니다. 아들은 나무장수의 뒤를 따라갔습니다.

“Tôi biết rồi.” Người tiều phu nhận tiền rồi nhanh chóng đi đến quán trọ. Thế là người con trai đi theo sau người tiều phu.

나무장수가 장작을 가져오자 여관 주인은,

“이게 웬 장작이오? 나는 장작을 산 일이 없소.” 라고 말했습니다.

Thấy người tiều phu mang củi đến, người chủ quán liền hỏi: “Củi gì đây? Tôi đâu có mua củi.”

“아닙니다. 방금 내 뒤를 따라온 분이 장작 값을 내고, 이리로 배달해 달라고 했습니다.”

나무장수가 말했습니다.

“Không, cái người đi theo sau tôi mua và bảo tôi mang nó đến đây cho ông.” Người tiều phu thật thà trả lời.

“안녕하습니까! 저는 이 여관에서 돌아가신 분의 아들입니다. 아버님의 장례를 잘 치러 주셨다니 정말 고맙습니다.”

“Chào ông. Tôi là con trai của người khách trọ qua đời mấy hôm trước. Tôi thành thật cảm ơn ông đã lo tang lễ chu đáo cho cha của tôi.”

아들은 여관 주인에게 깊이 고개 숙여 인사를 들렸습니다.

 Người con trai vừa cúi chào người chủ quán một cách lễ phép vừa nói như vậy.

 이것이 아들의 첫 번째 지혜로운 일이었습니다.

Đây chính là việc trí tuệ thứ nhất người con trai đã làm được.

여관 주인은 나그네의 아들을 반갑게 맞이하고 좋은 음식을 마련했습니다.

Người chủ quán chào đón người con trai một cách vui vẻ rồi thiết đãi một bữa thịnh soạn.

요리는  다섯 마리의 비둘기와 한 마리의 닭이었습니다.

Bữa ăn gồm có năm con chim bồ câu và một con gà.

식탁에는 여관 주인과 아내, 두 아들과 두 딸, 그리고 나그네의 아들까지 일곱 사람이 앉았습니다.

Bàn ăn gồm có vị chủ quán, vợ ông ấy, hai người con trai, hai người con gái và con trai người khách trọ, tất cả bảy người.

“이 음식은 당신을 위해 마련한 겁니다. 그러니까 당신이 이 음식을 우리 모두에게 골고루 나누어 주시기 바랍니다.”

요리가 다 나오자 여관 주인이 말했습니다.

“Những món ăn này tôi đặt biệt chuẩn bị cho cậu đấy. Vậy nên cậu hãy chia đều cho tất cả chúng ta đi.”

“아닙니다. 저는 손님이니까, 음식은 주인께서 나누시는 것이 좋겠습니다.”

아들이 말했습니다.

“Không, tôi là khách nên việc chia thức ăn ông làm thì hơn.” Nghe thế người chủ quán lại nói:

그러나 여관 주인은,

“그렇지  않습니다. 이 음식은 손님을 위해 마련한 것이니까 손님께서 나누시는  게 좋습니다.” 라고 억지로 권했습니다.

“Không được, những món ăn này là chuẩn bị cho khách thì khách phải chia chứ.” Người chủ quán cố tình ép buộc người con trai phải chia thức ăn.

“알겠습니다. 제가 꼭 나누어야 한다면, 공편하게 나누어 보겠습니다.”

“Thôi được rồi, nếu như nhất định là tôi phải chia thức ăn thì tôi sẽ chia cho thật công bằng.”

나그네의 아들은 비둘기 요리를 나누기 시작했습니다.

Người con trai bắt đầu chia món ăn làm từ bồ câu.

한 마리의 비둘기를 주인 부부에게 주고, 또 한 마리는 두 아들에게 주고, 두 딸에게도  비둘기 한 마리를 주었습니다. 그리고 남은 두 마리의 비둘기 요리는 자신의 몫으로 남겼습니다.

Anh ta chia cho hai vợ chồng chủ nhà trọ một con, hai người con trai một con, hai người con gái một con, và hai con còn lại là phần của anh ta.

이것은 두 번째 지혜로운 일어었습니다.

Việc này là việc trí tuệ thứ hai mà người con trai đã làm được.

 그러나 주인 부부와 저녀들은 몹시 기분 나쁜 표정으로 나그네의 아들을 지켜 보왔습니다.

Nhưng mà vợ chồng chủ nhà trọ và bốn người con với nét mặt không vui yêu cầu người con trai chia tiếp món ăn làm từ con gà.

“닭 요리도 나누어 주시지요.”

여관 주인이 말해습니다.

“Cậu hãy chia luôn con gà đi.”

나그네의 아들은 닭 요리도 나누었습니다.

Người con trai tiếp tục chia con gà.

먼저 닭 머리를  주인 부부에게 주었습니다.

Trước tiên đầu gà thì chia cho vợ chồng chủ nhà.

닭의 다리는 두 아들에게 하나씩 나누어 주고, 두 딸에게는 닭 날개를  하나씩 나누어 주었습니다.

Chân gà thì chia cho hai người con trai, mỗi người một cái. Tương tự cánh gà thì chia cho hai người con gái.

그리고 남은 닭의 몸통은 자기 몫으로 남겼는데 이 것이 세 번째 지혜로운 행동이었습니다.

Và toàn bộ phần còn lại của con gà là phần của mình. Đây là việc làm trí tuệ thứ ba của người con trai.

그러자 여관 주인은 더 이상 참지 못하고 화를 버럭 냈습니다.

“여보시오, 당신네 예살렘에서는 음식을 이렇게 나눈단 말이오? 당신이 처음 비둘기를 나눌 때는 겨우 참았지만, 닭 요리를 나누는 걸 보니 더 이상 참을 수가 없소.”

Ngay lúc đó người chủ quán trọ không thể chịu đựng thêm nữa, tức giận nói rằng: “Này cậu kia, Ở Jerusalem của các cậu chia thức ăn như vậy đó hả? Lúc đầu khi cậu chia món bồ câu tôi còn chịu đựng được nhưng tới khi cậu chia món gà thì tôi hoàn toàn không thể chịu đựng thêm được nữa.”

“주인님, 왜 그리 화를 내습니까? 처음부터 나는 음식 분배하는 일을 맡고 싶지 않았습니다. 그렇지만  주인께서 하도  권하시기에 공평하게 나눈 것뿐입니다.”

아들은 태연하게 대답했습니다.

“Ông chủ, sao ông lại tức giận như vậy? Ngay từ đầu không phải ông muốn nhường việc chia thức ăn cho tôi làm hay sao? Tôi chỉ chia thức ăn một cách công bằng như ông muốn thôi mà.” Người con trai thản nhiên trả lời như vậy.

“곻평하다니, 그래 이게 공평할 거요? 어째서 당산은 혼자인데, 비둘기를 두 마리나 갖고, 우리 가족은 두 사람에 비둘기 한 마리란  말이오. 그리고, 우리 부부에게는 닭 머리만 주고 몸통은 당신 혼자만 먹겠다니, 그래 이게 공평하단 말이오?”

주인은 더욱 큰 소리로 나무랐습니다.

“Công bằng? Như vậy mà gọi là công bằng hả? Làm sao mà một mình cậu mà tới hai con bồ câu trong khi gia đình chúng tôi một con chia cho hai người. Rồi vợ chồng chúng tôi thì cậu cho mỗi cái đầu gà, còn bản thân cậu thì giành lấy hết cả con gà mà ăn. Vậy thì công bằng ở đâu? Cậu nói tôi nghe.” Người chủ trọ tức giận nói lớn tiếng.

“아, 그 때문에 화를 내시는 겁니까? 그 건 다 이유가 있습니다.”

아들은 비둘기 요리와 닭 요리를 왜 그렇게 나누게 됐는지 자세히 설명했습니다.

“À, thì ra là vì cái đó mà ông tức giận. Cái đó đều có lý do của nó hết.” Người con trai bắt đầu từ tốn giải thích tại sao mình lại chia thức ăn như vậy.

“우리 일곱 명에 비둘기는 다섯 마리입니다. 그래서 주인 내외와 비둘기 한 마리면 셋이 되고, 아드님 형제와 비둘기 한 마리면 셋이 되죠. 그리고 따님 돌에 비둘기 한 마리, 이것도 셋입니다. 저는 혼자니까  비둘기 두 마리라야 셋이 되니까 공평하지 않습니까?”

“Chúng ta có tất cả bảy người mà chỉ có năm con chim bồ câu. Vì vậy vợ chồng ông chủ và một con chim bồ câu là ba. Hai người con trai của ngài và con chim bồ câu cũng là ba. Hai cô con gái và con chim bồ câu cũng là ba. Tôi thì chỉ có một mình, nên tôi và hai con chim bồ câu thì mới là ba được. Không phải sao?”

“그렇다면 닭 요리를 그렇게 나눈 것도 이유가 있단 말이오?”

“Vậy còn con gà, lý dó gì mà lại chia như vậy?”

“그렇습니다. 주인 내외분은 이 집안의 어른이시니까 닭의 머리를 드린 겁니다. 그리고 두 아들은 이 집의 기둥이니까 다리를 드렸고, 두 따님은 멀지 않아 날개를 펴고 시집을 가겠지요? 그래서 날개를 드렸습니다. 그런데 저는 여기 올 때 배를 타고 왔고, 갈 때도 또 닭의 몸통처럼 생길 배를 타고 갈 것이기 때문에 몸통을 갖게 된 것이죠.”

“Thưa ngài, Vợ chồng ngài là hai người lớn nhất trong nhà nên tôi mới dành cái đầu gà cho hai người. Hai cậu con trai là trụ cột của gia đình nên tôi dành cho hai cậu ấy hai cái chân. Còn hai cô con gái ngài không lâu nữa sẽ đi lấy chồng nên tôi dành cho hai cô ấy cặp cánh. Còn tôi, khi đi đến đây tôi đi bằng thuyền, và khi về tôi cũng sẽ đi bằng thuyền. Hình dạng chiếc thuyền chẳng phải là giống thân con gà hay sao? Nên tôi mới dành phần thân gà cho mình.”

나그네 아들의 말을 들은 여관 주인은 활짝 웃으며 고개를 끄덕였습니다.

Nghe xong lời giải thích của người con trai người khách trọ thì ông chủ nhà trọ vừa bật cười vừa gật đầu ra vẻ đồng ý.

“정말 훌륭합니다. 당신은 아버지의 소유물을 차기해도 젛은 만큼 지혜롭군요. 당신이 세 가지 지혜로운 일을 했으니까, 당신의 아버지가 맡겨 놓은 물건을 모두 드리지요”.

여관 주인은 나그네가 족기 전에 맡겨 뒸던 귀중한 유물을 모두 그 아들에게 넘겨 주었습니다.

“Cậu thật sự rất thông thái và đầy trí tuệ. Cậu xứng đáng nhận lại được những vật báu của cha cậu. Vì cậu đã làm được ba việc trí tuệ nên ta sẽ đưa lại toàn bộ những vật báu mà cha cậu đã gửi cho ta.”. Nói rồi ông chủ nhà trọ đưa lại toàn bộ số của cải quý giá mà người khách trọ đã giao cho ông ấy trước khi qua đời cho người con trai.

이것은 지혜가 얼마나 소중한 것인가를 가르쳐 주는 하나의 교훈입니다.

Lời Bình: Câu chuyện trên là một lời giáo huấn mà người Do Thái dạy cho chúng ta biết được Trí tuệ đóng vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống hàng ngày.

지혜는 사람이 어려운 일을 당했을 때 그 어려움을 피할 수 있게 해 주고, 가난한 사람을 부자로 만들어 주며, 보잘것없는 위치의 사람에게 높은 직위나 명예를 선물한다는 것은 분명합니다.

Trí tuệ giúp cho chúng ta chiến thắng khó khăn, giúp cho chúng ta từ một người nghèo trở thành một phú hộ, từ một kẻ vô danh thành một người có chức tước, cho ta danh dự và sự kính trọng.

그리고 지혜는 꾸준히 지혜를 얻기 위해 노력하는 사람에게만 샘솟듯 솟아난다는 것을 명심해야 합니다.

 Nhưng chúng ta phải nhớ kĩ rằng: Trí tuệ chỉ đến với những người thật sự khao khát có được Trí tuệ.

  • 도둑놈 모자에 불이 붙었다 – CÁI NÓN CỦA TÊN TRỘM BỊ CHÁY

탈무드에는 헤아릴 수 없이 많은 격언이나 속담이 있습니다.

Trong TALMUD có vô số tục ngữ và danh ngôn.

그 중에는 마치 수수께끼처럼 이해하기 어려운 것도 많습니다.

 Trong số đó có nhiều câu khó mà hiểu rõ được giống như những câu đố hóc búa vậy.

그러나 그 많은 격언이나 속담은 모두 오랜 세월 동안 고통과 시련을 받으며 살아 온 유태인들이 경험 속에서 만들어 낸 것이기 때문에 어느 것이든 중요한 뚯을 지니고 있습니다.

Tuy nhiên đại bộ phận những câu tục ngữ, danh ngôn đó là những sản phẩm được kết tinh từ những đau khổ, và thử thách mà người Do Thái đã trải qua, cho nên dù là câu nói nào trong TALMUD thì đều có ý nghĩa quan trọng.

‘도록놈의 머리 위에서 모자가 불타고 있다.’

Trong số đó có câu tục ngữ:

“Cái nón trên đầu tên trộm đang cháy”

이것은 유태의 속담입니다.

이 속담의 뚯은 무엇일까요?

Theo các bạn câu tục ngữ này có ý nghĩa gì?

왜 모자가 불타고 있을까요?

Tại sao cái nón lại đang cháy?

어째서 도둑이 나오고 도둑의 모자만이 불타고 있을까요?

Tại sao tên trộm lại xuất hiện trong câu tục ngữ này? Và tại sao chỉ có mỗi cái nón đang cháy?

 아무리 생각해도 왜 그런 일이 있을 수 있는지 그 뚯을 알 수가 있습니다.

Dù có suy nghĩ thế nào thì cũng khó mà hiểu được tại sao những việc đó lại xảy ra và có ý nghĩa là gì?

그러나 이 속담이 어떻게 해서 생겨나게 됐는지를 안다면 여러분은 하하 웃을 것입니다.

Nhưng nếu như các bạn biết được hoàn cảnh mà câu tục ngữ này ra đời thì các bạn sẽ phải bật cười.

어느 날, 동부 유럽에 사는 한 유태인이 모자를 도둑맞았습니다.

Một ngày nọ, một người Do Thái sống ở Châu Âu bị trộm mất cái nón.

그런데 그 모자는 누구나 쓰는 평범한 모자였기 때문에 모자만 보고는 알 수가 없었습니다.

Tuy nhiên cái nón đó lại là một cái nón bình thường không có gì đặc biệt mà ai cũng có thể đội nên dù có thấy cũng không thể biết được.

모자를 도둑맞은 유태인은 즉시 밖으로 나와서 사방을 둘러봤습니다. 그랬더니 자기의 모자와 똑같은 모자를 쓴 몇 사람이 눈에 띄었습니다.

Ngay khi mất cái nón, người Do Thái chạy ra ngoài nhìn tứ phía thì thấy có vài người đội cái nón giống hệt cái của mình.

그렇지만 누가 모자 도둑인지 도무지 가려 낼 수가 없었습니다.

Nhưng ông ta hoàn toàn không thể biết được ai là người đã trộm cái nón của mình.

그래서 그 유태인은 마음을 단단히 먹고는 이렇게 외쳤다고 합니다.

Vì vậy người Do Thái đó hét lớn lên như thế này:

“도둑놈 모자에 불이 붙었다.”

“Cái nón của tên trộm bị cháy rồi.”

자, 어떻게 됬을까요?

Chà, theo các bạn câu chuyện sẽ như thế nào đây?

물론 가장 먼저 자기의 모자를 놀러 본 사람이 도둑이었다고 합니다.

Tất nhiên kẻ nào ngước nhìn cái nón của mình trước tiên, kẻ đó chính là tên trộm.

  • 어리석은 사람들의 희의 – CUỘC HỌP CỦA NHỮNG TÊN NGỐC

유태인들이 가장 싢어하는 말 중에 ‘어리석은 사람’이라는 말이 있습니다.

Trong tiếng Do Thái, người Do Thái ghét nhất từ “Kẻ Ngốc”.

그들은 이 세상에서 무었보다 지혜를 소중히 여기기 때문에 지혜의 반대인 어리석음을 몹시도 미워하고 싫어합니다.

Vì họ nghĩ rằng “Trí Tuệ” là quan trọng nhất trên đời này nên họ rất chán ghét “Ngu ngốc” là sự đối lập với “Trí tuệ”.

그래서 유태인의 격언 중에는 어리석은 사람이나 어리석은 짓을 빗대어 말한 교훈이 많습니다.

Chính vì vậy, trong danh ngôn của người Do Thái, có rất nhiều câu nói về sự ngu ngốc hoặc là kẻ ngốc nghếch.

옛날 예날에 첼룸이라는 도시가 있었다고 합니다.

Ngày xửa ngày xưa có một thành phố tên là Chellum.

 첼룸은 어디서나 볼 수 있는 작은 도시였습니다.

 Chellum là một thành phố rất nhỏ, nhỏ đến mức người ta cho rằng không cần thiết để ghi nó vào sách lịch sử.

 그래서 역사책에 이름이 전해 올 만큰 중요하지도 않아서 지금은 어느 나라의 어디쯤에 있었던 도시인지 아는 사람이 아무도 없고 다만 이런 이야기만 전해 온다고 합니다.

Vì vậy, không có ai biết bây giờ thành phố này thuộc đất nước nào, chỉ là biết đến nó qua câu chuyện dưới đây:

첼룸은 깊은 산 속에 있는 도시였기 때문에 이 도시로 들어오는 길이 몹시 험했습니다.

Chellum là một thành phố nằm sâu trong rừng, cho nên đường đi vào thành phố này rất hiểm trở.

산 중턱에 있는 꾸불꾸불하고 좁은 , 매우 위험한 길을 지나야 했는데, 길이 어찌나 험한지 이 길을 지나는 사람들이 넘어지거나 벼랑에서 떨어져 다치는 일이 많았습니다.

Phải đi qua một con đường nguy hiểm, nhỏ hẹp, và gập ghềnh trên lưng chừng núi. Có nhiều khi đang đi thì bị trượt chân té xuống vách đá, nhẹ thì bị thương, nặng thì mất mạng.

 그래서 이 도시 사람들은 되도록이면 다른 도시로 나다니기를 싫어하게 되었습니다.Chính vì lẽ đó mà những người sống trong thành phố Chellum rất ghét phải đi đến những thành phố khác.

 그러다 보니 살아가는 데 필요한 물건이 점점 귀해졌습니다.

Họ chỉ đi khi cần thiết và bắt buộc phải đi.

생선장수가 언덕에서 떨어져 다치는 바람에 생선을 구할 수 없게 되었습니다.

Vì vậy, dần dần những hàng hóa dùng trong sinh hoạt ngày càng trở nên qúy hiếm.

집배원이 벼랑에서 떨어져 편지를 받아 볼 수 없게 되었습니다.

Ông bán cá thì do trượt chân té xuống đồi bị thương nên không có cá để mua. Ông giao phát thư thì bị thương do té xuống vách đá nên người dân không thể nhận được thư để đọc.

우유 배달원이 것난아이에게 먹일 우유를 가져오다가 넘어져서 우유를 모두 쏟아 버렸습니다.

 Ông giao sữa thì trên đường đi giao sữa lại trượt chân té nên đổ hết sữa.

그래서 마침내 이 도시의 시장과 주민들이 모여서 회의를 하게 되었습니다.

Vì vậy cuối cùng thị trưởng thành phố và người dân tụ tập lại để cùng nhau họp bàn.

이대로 가다가는 도저히 살길이 없기 때문에 좋은 대책을 찾기 위한 회의였습니다.

Đó là cuộc họp tìm ra cách nào tốt nhất để giải quyết tình hình hiện tại vì không có con đường núi nào mà người dân dám đi qua nữa.

사람들은 저마다 머리를 짜내면 좋은 생각을 말했습니다.

Mọi người đều vò đầu bứt tai nghĩ ra những ý kiến hay.

 사람들의 의견은 수없이 많았습니다. 모두가 자기 의견만 옳다고 주장했습니다.

Ý kiến của người dân thì nhiều vô số kể, nhưng ai ai cũng cho rằng ý kiến của mình là hay là tốt nhất.

밤낮을 가리지 않고 엿새 동안 회의를 한 끝에 사람들은 마침내 한 가지 결론을 얻을 수 있었습니다.

 Vì vậy cuộc họp kéo dài từ sáng đến tối mà vẫn không thể kết thúc. Cuối cùng, mọi người nhất trí đưa ra kết luận.

그들은 벼랑이 있는 언덕 아래에 병원을 짓기로 했답니다.

Đó là: sẽ xây một cái bệnh viện ở dưới vách núi.

이 이야기는 아무리 오랜 시간을 두고 회의를 하고 의견발표를 한다고 해도 어리석은 사람들의 결론에는 지혜로운 대책이 만들어지지 않는다는 것을 가르쳐 주고 있습니다.

Lời Bình: Câu chuyện này muốn nói rằng những kẻ ngu ngốc dù tốn rất nhiều thời gian để hội họp và đưa ra ý kiến thì rốt cuộc vẫn không thể đưa ra được một giải pháp thông minh hay trí tuệ nào.

아무리 홀륭한 병원을 짓는다고 해도 생선장수나 집배원, 우유 배달원이 똑같은 사고를 당한다면 생선이나 편지, 우유를 제대로 배달할 수는 없는 일이니까요.

 Vì dù có xây một bệnh viện lớn và tốt như thế nào mà ông bán cá, ông giao sữa hay ông giao thư lại bị những tai nạn như cũ thì cá hay sữa hay thư cũng sẽ không có được.

  • 날개를 사용할 줄 모르는 새 – CON CHIM KHÔNG BIẾT SỬ DỤNG ĐÔI CÁNH

탈무드에는 이 세상이 처음 만들어질 때의 이야기들이 꽤 많이 실려 있습니다.

Trong TALMUD chứa đựng vô số những câu chuyện từ thuở khai thiên lập địa của con người.

‘날개를 사용할 줄 모르는 새’ 이야기도 그 가운데 하나랍니다.

Câu chuyện về “Con chim không biết sử dụng đôi cánh” sau đây là một trong số những câu chuyện đó.

하나님이 처음에 새나 짐승을 만들었을 때, 새에게는 날개가 없었습니다.

Ông trời lúc đầu khi tạo ra chim và muôn thú, thì tạo ra chim là một loài không có cánh.

그래서 새들이 모여 의논을 했습니다.

Vì vậy những con chim mới tụ tập lại rồi bàn luận với nhau.

‘이봐요, 우리 새들은 힘도 약하고 빨리 뒬 수도 없는데 어떡하지?’

“Này, loài chim chúng ta sức thì yếu mà chạy thì cũng không nhanh. Vậy thì phải làm sao?”

“그래, 사나운 다른 짐승들이 우리를 잡아먹으려고 하면 우린 꼼짝없이 먹히고 말 거야.”

“Đúng vậy, những con thú hung dữ khác, nếu chúng muốn bắt chúng ta để ăn thịt thì dễ như không ấy.”

“하나님은 우리 새들을 왜 이렇게 만드셨지?”

“Ông trời tại sao lại tạo ra loài chim chúng ta như vậy nhỉ?”

“우리 이러고 있을 게 아니라 하나님께 가서 항의를 하자.”

“Chúng ta không thể như vậy được, chúng ta hãy cùng đi gặp Ông trời để phản đối đi.”

“그래, 우리에게도 우리 자신을 보호할 수 있는 무기를 달라고 하자.”

“Đúng vậy, chúng ta hãy yêu câu Ông trời cho chúng ta một loại vũ khí để có thể tự bảo vệ bản thân mình đi.”

“좋아, 하나님께 가자. 모두 가서 말하자.”

“Đúng rồi, chúng ta hãy đi gặp Ông trời. Tất cả chúng ta đi thôi.”

이렇게 의논한 새들은 모두 하나님 앞에 몰려가서 적으로부터 자신을 지킬 수 있는 무기를 달라고 요구했습니다.

Những con chim bàn luận với nhau như vậy, rồi cả đám kéo nhau đến trước Ông trời, yêu cầu Ông ban cho chúng một loại vũ khí có thể bảo vệ được bản thân.

“하나님, 뱀은 독을 가지고 있어서 자신을 지킬 수 있습니다. 사자는 날카로운 이빨을 가지고 있고, 말은 튼튼한 뒷발이 있습니다. 그러나 우리 새들에게는 아무것도 없습니다. 우리는 어떻게 자신을 지켜야 됩니까?”

“Ông trời ơi, loài rắn thì có nọc độc. Sư tử thì có răng nanh sắc nhọn. Loài ngựa thì có đôi chân sau mạnh mẽ. Nhưng mà loài chim chúng con thì chẳng có cái gì. Chúng con làm sao mà có thể bảo vệ bản thân mình được đây?”

새들의 말을 들은 하나님은 새들의 요구가 당연하다는 생각을 했습니다.

Nghe lời nói của bọn chim, Ông trời nghĩ rằng yêu cầu của chúng là chính đáng.

그래서 곰곰 생각한 끝에 깃과 날개를 만들어 주었습니다.

Vì vậy sau một hồi suy nghĩ, Ông đã ban cho chúng thêm lông vũ và đôi cánh.

깃과 날개를 얻은 새들은 좋아라고 뛰어나갔습니다.

Những con chim sau khi được ban cho thêm lông vũ và đôi cánh thì rất đỗi vui mừng, chạy nhảy khắp nơi.

 그러나 얼마 새들 은 다시 되돌아와서 이렇게 호소했습니다.

Nhưng vài ngày sau, những con chim lại chạy đến Ông trời than vãn:

 “하나님, 날개는 무거운 짐만 될 뿐 쓸모가 없습니다. 날개를 몸에 달고 있으니까 몸이 더 무거워져서 전처럼 빨리 달릴 수가 없습니다.”

“Ông trời ơi, đôi cánh này chỉ có nặng nề, chứ chẳng có giúp ích được gì. Vì có thêm đôi cánh nên cơ thể trở nên nặng nề hơn, không còn có thể chạy nhảy nhanh nhẹn như lúc trước nữa.”

“어리석은 새여…..”

하나님은 이렇게 말했습니다.

“너희들은 날개를 사용해 볼 생각조차 하지 않았단 말이냐? 내가 너희들에게 두 날개를 준 것은 날개라는 짐을 지고 걸으라고 한 게 아니야. 날개를 이용해서 하늘 높이 날아 아무리 힘센 사자가 덮쳐와도 자유로이 도망칠 수 있도록 준 것이니라.”

“Cái bọn chim ngu ngốc này…” “Các ngươi thậm chí không nghĩ đến việc sẽ sử dụng đôi cánh này hay sao? Ta cho các ngươi thêm đôi cánh không phải để cơ thể các ngươi nặng nề hơn, mà là để các người dùng đôi cánh đó để bay lên trời khi gặp nguy hiểm.”

그래서 새들은 날개를 퍼덕이며 일제히 하늘 높이 날아오르는 걸 알게 됐다고 합니다.

Lúc đó thì những con chim mới biết dang rộng đôi cánh ra và bay vút lên bầu trời.

날개를 가지고도 날 수 없는 새의 이야기는 누구나 머리를 쓰면 좋은 생각이 떠오른다는 교훈입니다.

Lời Bình: Thông qua câu chuyện về những con chim có cánh mà không biết bay, người Do Thái muốn khuyên chúng ta rằng nếu chúng ta biết động não, biết sử dụng cái đầu của mình thì những suy nghĩ hay sẽ xuất hiện.

사람들 중에는 이따금,

“나는 능력이 없어”

“나는 아무것도 할 수 없어”

하며 어리석은 불평을 하는 사람이 있습니다.

 Trên đời này có rất nhiều người than vãn rằng: “ Tôi không có năng lực.”, “Tôi không thể làm bất cứ việc gì.”

일을 하거나 능력을 발휘해 볼 생각은 않은 채 불평만 한다면 그처럼 어리석은 일이 어디 있을까요?

Nhưng họ không biết rằng nếu không chịu khó học hỏi, làm việc và suy nghĩ để phát huy năng lực thì ngồi không than vãn như vậy là một việc làm ngu ngốc không có tác dụng gì.

아무리 천재라도 이 세상의 모든 일을 혼자서 다 할 수는 없습니다.

Dù là thiên tài thì cũng không thể tự mình làm hết tất cả mọi việc.

학교에서 모두가 똑같이 똑같은 시간 동안 공부하면서도, “나는 머리가 나빠. 나는 공부 잘하기는 틀렸어.”

라고 생각하는 학생도 있습니다.

Tất cả học sinh đều học như nhau về thời gian, về kiến thức nhưng vẫn có học sinh nghĩ rằng:

“Mình thật là ngu ngốc, mình chắc chắn không học giỏi được.”.

 그런 학생은 바로 날개가 있으면서도 날아 보려고 하지 않고, 날 생각조차 하지 않는 새와 다름이 없습니다.

 Những học sinh như vậy chính là có cánh mà không chịu bay, có khác gì với con chim trong câu chuyện trên, có cánh nhưng mà thậm chí bay lên trời cũng không nghĩ đến.

이 세상에는 해야 할 일들이 많습니다.

Trên đời này có nhiều việc chúng ta phải làm.

그 중에서 어느 일 하나쯤은 ‘내가 제일 잘할 수 있어’ 라고 생각하고 실제로 해 보면 틀림없이 잘할 수 있게 됩니다. 학교 공부도 마찬가지랍니다.

Một trong số đó là phải suy nghĩ : “ Mình có thể làm giỏi nhất.” rồi theo suy nghĩ đó bắt tay vào làm thực tế thì chắc chắn sẽ làm giỏi nhất. Việc học ở trường cũng giống như vậy.

모든 과목을 다 잘할 수는 없겠지만 어느 한 과목쯤은 틀림없이 잘할 수 있을 것입니다.

Có thể bạn không thể học giỏi hết tất cả các môn học nhưng chắc chắn bạn sẽ giỏi ít nhất một môn học nào đó.

  • 머리와 꼬리 – ĐẦU VÀ ĐUÔI

한 마리의 뱀이 있었습니다. 뱀은 항상 머리가 앞서서 가면 꼬리가 뒤에서 끌려가듯이 따라가게 마련입니다. 꼬리는 그것이 큰 불만이었습니다.

Ngày xửa ngày xưa, có một con rắn nọ hễ khi di chuyển thì cái đầu của nó sẽ đi trước, còn cái đuôi thì bị kéo lê theo sau. Lần nào cũng vậy nên cái đuôi rắn rất bất mãn.

어느 날, 꼬리가 마침내 더 참을 수 없다는 듯이 머리에게 말했습니다.

 Một ngày nọ, cái đuôi không thể chịu nổi nữa nên mới nói với cái đầu:

“이봐, 머리야. 나는 이제 더 이상 참을 수 없어. 태어나면서부터 나는 네 뒤만 따라다녔어. 내가 가기 싫은 곳이라도 나는 네가 가는 곳으로 너의 종처럼 따라다녔어, 너는 언제나 내 대신 생각하고, 의견을 말하고, 네 마음대로 방향을 정해서 나를 끌고 다녔지. 우리는 한 몸뚱이에 붙어 있는데도 불구하고, 이처럼 불공평한 일리 어디 있니? 나도 뱀의 일부야, 나는 네 노예가 아니란 말이야. 나도 이젠 내 마음대로 내가 가고 싶은 방향으로 가겠어.”

“Này, Đầu. Ta là bây giờ ta không nhịn ngươi nữa. Từ khi sinh ra tới giờ ta toàn phải đi theo sau cái Đầu nhà ngươi. Nơi ngươi đến dù là ta không thích, ta cũng phải đi theo ngươi. Ngươi lúc nào cũng suy nghĩ và đưa ra ý kiến thay ta. Ngươi đi đến nơi ngươi muốn rồi lôi ta theo sau. Chúng ta dù ở chung trên một cơ thể đi chăng nữa mà cái chuyện bất công này cứ xảy ra thì làm sao mà ta chịu được. Ta cũng là một bộ phận quan trọng mà, ta không phải là nô lệ của nhà ngươi. Ta, từ bây giờ sẽ đi đến nơi ta muốn đi theo ý ta.”

그러자 머리가 껄껄 웃으며 대꾸했습니다.

Nghe cái Đuôi nói xong, cái Đầu vừa cười ha hả vừa nói:

“아니, 무슨 말을 하는 거야? 너는 앞을 볼 눈도 없고, 위험을 알아차릴 귀도 없쟎아. 그뿐이냐? 너는 생각하는 두뇌도 없고, 음식을 배불리 먹여 줄 입도 없으면서 어떻게 그런 불평을 할 수 있지? 내가 곧장 가건 돌아서 가건 그건 나 자신만을 위해서 그러는 게 아니야. 모두가 너를 생각해서 안전한 길로 가는 거야.”

 “Trời, ngươi đang nói cái gì vậy? Ngươi, mắt để nhìn đường thì không có, tai để nghe ngóng sự nguy hiểm cũng không. Đâu phải chỉ những cái đó. Não để suy nghĩ cũng không có, miệng để ăn thức ăn cũng không có thì ngươi bất bình cái gì? Ta dù có quay tới quay lui, lôi ngươi đi, tất cả những thứ đó ta làm đâu phải vì bản thân ta. Tất cả ta đều suy nghĩ đến sự an toàn của ngươi mà thôi.”

머리의 말을 들은 꼬리는 큰 소리로 비웃으면서,

“ “홍, 모두가 나를 위해서라고? 그런 말은 이제 싫증이 난다. 나는 이제 더 이상 너를  따라가지 않겠어. 너도 알고 있지? 어떤 독재자든간에 모두가 백성을 위해서라는 구실로 말을 하지만, 사실은 모두가 제 마음대로 하고 있다는 것쯤 내가 모를 줄 아느냐?”

라고 했습니다.

Cái Đuôi nghe xong thì mỉa mai nói lớn tiếng: “ Gì chứ, tất cả là làm vì ta ư? Ta chán phải nghe những lời như vậy rồi. Ta, từ bây giờ trở đi sẽ không đi theo nhà ngươi nữa. Chắc ngươi cũng biết. Tên độc tài nào mà chẳng nói là mình làm vì nhân dân nhưng sự thật thì đều làm theo cái bản thân mình muốn thôi. Ngươi tưởng là ta không biết à?”

 “네가 그렇게까지 말한다면 할 수 없지. 그럼 네가 앞장서서 길을 인도해라. 내가 네 뒤를 따르지.”

“Nếu nhà ngươi đã nói đến mức độ này thì ta không còn gì để nói thêm nữa. Vậy thì bây giờ hãy đổi lại, ngươi dẫn đường đi trước, ta sẽ theo sau.”

머리는 꼬리의 말에 따르기로 했습니다.

Cái Đầu không còn cách nào khác đành phải làm theo lời cái Đuôi.

“머리야, 네가 이해해 주니 고맙다. 그럼 지금부터 내가 가는 곳으로 따라오기 바란다.”

“Đầu à, cám ơn vì ngươi đã hiểu cho ta. Vậy thì từ bây giờ trở đi ngươi hãy đi theo ta.”

꼬리는 몹시 좋아했습니다. 그리고 이번에는 꼬리가 앞장서서 먼저 앞으로 나아갔습니다.

Cái Đuôi rất thích thú và bây giờ cái Đuôi đi trước còn cái Đầu theo sau.

그런데 조금 가다가 그만 길을 잘못 들어 그만 시궁창에 빠지고 말았습니다. 꼬리는 아무리 애를 써도 시궁창에서 빠져 나올 수가 있었습니다.

Nhưng mà chỉ đi được một lát vì đi sai đường nên đã rớt xuống cống, cái Đuôi cố gắng hết sức nên đã thoát ra khỏi cái cống được.

이윽고 꼬리가 앞장 서서 다시 앞으로 가고 머리가 뛰를 따라갔습니다.

Một lúc sau cái Đuôi lại tiếp tục đi trước, và cái Đầu lại đi theo sau.

그러다가 이번에는 가시덤불 속으로 들어가게 되었습니다. 날카로운 가시에 찔리면서 조금씩 앞으로 나가다가 마침내 가시덤불에 갇히게 되어 쫌짝할 수가 없었습니다.

 Nhưng lần này lại đi nhầm vào bụi gai nên toàn thân con rắn bị gai nhọn đâm, cái Đuôi cố gắng từng chút một để thoát ra ngoài nhưng cuối cùng bị kẹt trong bụi gai không nhúc nhích được.

이번에도 꼬리는 머리의 도움을 받아 온몸에 상처를 입으면서 겨우겨우 가시덤불을 빠져 나오게 되었습니다. 꼬리는 여전히 고집을 피우며 앞장 서서 나갔습니다.

Lần này cái Đuôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của cái Đầu nên từ mới có thể thoát ra khỏi bụi gai nhưng toàn thân thì đầy thương tích.

그러다가 그만 불길   속으로 들어가게 되었습니다. 점점 몸이 뜨거워지고 불길은 사방으로 번져 갔습니다.  

Tuy nhiên cái Đuôi vẫn ngoan cố đi trước, và lần này thì lại đi vào trong đám lửa, dần dần cơ thể con rắn nóng lên và lửa lan ra khắp toàn thân.

그래도 고집스러운 꼬리는 어떻게라도 불길 속에서 빠져 나가려고 몸부림쳤지만 도대체 어디로 가야 할지 감을 잡을 수가 없었습니다.

“Cái đuôi cố chấp” giãy giụa để thoát ra khỏi đám lửa nhưng không biết phải đi ra theo phía nào.

 마침내 꼬리는,

“머리야, 내가 잘못했다. 제발 나가는 길을 찾아 줘. 네가 앛장 서서 가더라도 다시는 불평하지 않겠어.”

하면 비명을 질렸습니다.

Cuối cùng cái Đuôi nói với cái Đầu: “ Đầu à, ta sai rồi. Làm ơn hãy tìm đường thoát ra đi. Ngươi cứ đi trước lại như cũ đi. Ta không thấy bất bình gì nữa đâu.”

다급해진 머리가 어떻게든 불길 속을 빠져 나가려고 노력했지만, 이미 때는 늦었습니다. 마침내 몸에도 불이 붙고, 머리와 함께 꼬리도 불에 타서 죽고 말았습니다.

Cái Đuôi vừa nói như vậy vừa hét lên đau đớn trong đống lửa. Trong cơn nguy cấp cái Đầu nỗ lực tìm mọi cách để thoát ra đám lửa, nhưng tất cả đã muộn. Toàn thân con rắn, cái Đầu, cái Đuôi bị lửa thiêu đến chết.

어리석은 꼬이의 고집 때문에 머리와 몸뚱아까지도 해를 입은 것입니다.

Lời Bình: Vì sự cố chấp của cái Đuôi ngu ngốc mà Thân rắn và Đầu rắn phải chết oan uổn.

사람의 몸도 마찬가지랍니다.

Cơ thể của con người cũng giống như vậy.

눈이 하는 일, 입이 하는 일이 다르고 손관 발이 하는 일도 각각 다릅니다.

 Mắt và mũi có nhiệm vụ khác nhau, tay và chân làm công việc khác nhau.

결국 어리석은 고집만 피우다 보면 자기만 구렁텅이에 빠지는 것이 아니라 죄 없는 다른 사람마저도 위험에 빠지게 합니다.

Nếu chỉ cố chấp một cách ngu ngốc thì không chỉ bản thân mình rơi xuống hố mà còn kéo theo những người vô tội khác rơi vào vòng nguy hiểm.

어떤 일을 하든 올바른 지도자른 선택해야 되며, 꼬리처럼 어리석은 자를 선택해서는 안 된답니다.

Dù là làm việc gì đi chăng nữa thì phải chọn người lãnh đạo trí tuệ và đúng đắn. Nếu chọn một người ngu ngốc và cố chấp như cái Đuôi thì hoàn toàn không thể đươc.

탈무드에는 이런 이야기도 있습니다.

Trong TALMUD cũng có câu chuyện thế này:

많은 사람이 배를 타고 항해를 하고 있었습니다.

Có nhiều người đang đi trên một chiếc thuyền hướng ra biển Hoàng Hải.

 구런데 배에 탄 한 사람이 자기가 앉아 있는 배 바닥에 끌로 구멍을 뚫고 있었습니다.

Tuy nhiên có một người đi thuyền dùng cái đục khoan một cái lỗ ở dưới đáy thuyền chỗ mình đang ngồi.

사람들이 놀라서

“이봐요, 당신 지금 무슨 짓을 하는 거요. 당장 그만두시오.”

하며 말렸습니다.

 Mọi người trên thuyền thấy vậy hết sức ngạc nhiên:

“Này ông kia, ông đang làm việc quái quỷ gì vậy? còn không mau dừng lại à.”

구러나 사나이는 태연히,

“참견하지 말아요. 여긴 내 자리니까 내가 무슨 일을 하든 당신들이 참견할 일은 아니오.”

라고 도리어 큰 소리를 쳤습니다.

Nhưng mà người đàn ông đó vẫn thản nhiên: “Đừng có xen vào chuyện của tôi. Đây là chỗ của tôi, tôi làm gì thì liên quan gì đến mấy người?” Ông ta trái lại còn lớn tiếng với mọi người trên thuyền như vậy.

마침내 배 바닥에 구멍이 뚫리고 바닷물이 솟아올랐습니다.

Cuối cùng dưới đáy thuyền có một cái lỗ nên nước biển tràn vào.

사람들이 당황해서 구멍을 막으려고 했지만, 어느 새배 안에 물이 가득 차서 사람들은 배와 함께 가라앉고 말았습니다.

Mọi người sợ hãi bịt cái lỗ lại nhưng mà nước đã vào đầy trong thuyền và mọi người cùng với chiếc thuyền chìm sâu dưới đáy biển.

어리석은 한 사람의 고집 때문에 배에 탄 많은 사람이 목숨을 잃은 것입니다.

Vì sự cố chấp của một kẻ ngu ngốc mà đã cướp đi sinh mạng của vô số người trên tàu.

______________

Mời các bạn tham khảo ngay Khóa học cho người mới bắt đầu:

________________
Mọi chi tiết vui lòng liên hệ TƯ VẤN
FACEBOOK: https://www.facebook.com/kanataviethan/
Cơ sở: 
  • Trụ sở chính: 384/19 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3. 028.3932 0868/ 3932 0869, 0931 145 823
  • Cơ sở 1: 72 Trương Công Định, P.14, Quận Tân Bình , 028.3949 1403 / 0931145 823
  • Cơ sở 2: Số 18 Nội khu Mỹ Toàn 2, khu phố Mỹ Toàn 2, H4-1, Phường Tân Phong, Quận 7, 028.6685 5980
  • Cơ sở 3: 856/5 Quang Trung, P8, Gò Vấp (Ngay cổng sau Trường THPT Nguyễn Công Trứ, hẻm đối diện công ty Mercedes) 028.3895 9102
  • Cơ sở 4: 144 Đinh Tiên Hoàng, P.1, Quận Bình Thạnh, 028.6270 3497
  • Cơ sở 5: 193 Vĩnh Viễn, Phường 4, Quận 10, 028.6678 1913
5 1 bình chọn
Xếp hạng bài viết
Đăng ký
Thông báo của
guest
Nhập họ tên (bắt buộc)
Email của bạn (bắt buộc)

1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Bình chọn nhiều
Phản hồi trong dòng
Xem tất cả bình luận
daophuong2709
daophuong2709
2 năm cách đây

Cảm ơn người viết

1
0
Click vào đây để bình luận hoặc gửi yêu cầu bạn nhé!x