- 말하기보다 듣기를 두 배로 – NGHE NHIỀU HƠN NÓI
말을 너무 해서는 안 된다. 말하기 보다는 듣기를 두 배로 하라.
Ông bà ta có câu “Nói dài nói dai thành ra nói dại.” Vì thế, hãy học cách lắng nghe nhiều hơn.
이것은 탈무드가 가르치는 중요한 교훈입니다. 탈무드에는 또 이런 이야기도 있습니다.
Đây là lời giáo huấn mà Talmud đã dạy chúng ta. Trong kinh Talmud có những câu chuyện như thế này.
신은 어째서 사람에게 두 개의 귀를 만들어 주었으면서 입은 한 개밖에 만들어 주지 않았을까? 그것은 말하기보다 듣기를 두 배로 하라는 신의 가르침이다.
“Tại sao Chúa lại tạo ra con người với hai cái tai mà chỉ có một cái miệng?” Đấy chính là lời răn của Chúa, rằng chúng ta cần phải nghe nhiều hơn là nói.
그런가 하면 또 이런 가르침도 있습니다.
Còn có một lời căn dặn khác như thế này.
당신이 만약 행복하게 살아가고자 생각다면 코로는 신선항 공기를 잔뜻 들이마시고, 입은 꼭 다물고 지내십시오.
“Nếu bạn nghĩ bạn đang sống hạnh phúc thì hãy cứ chỉ hít thở không khí trong lành và mím chặt môi lại rồi sống qua ngày.”
이말은 어느 것이나 현명한 사람은 말을 적게 하여 자신의 지혜를 감추지만 어리석은 사람은 말을 많이 합으로써자신의어리석을 드러낸다는 것을 경계한 것입니다.
Câu nói này là sự cảnh tỉnh cho những người khôn ngoan rằng nếu muốn che giấu trí tuệ của mình thì hãy nói ít lại, vì kẻ ngu dốt bộc lộ sự ngu ngốc của chúng bằng cách thể hiện nhiều qua lời nói.
우리 나라에도 ‘입은 모든 화의 근원’ 이라는 말이 있습니다. 그런가 하면 ‘침묵은 금이요, 웅번은 은’이라는 말도 있습니다. 말을 많이 한다는 것은 그만큼 실수를 많이 한다는 것과 같습니다.
Ở đất nước chúng ta có câu nói “Cái miệng hại cái thân.” hay “Im lặng là vàng. Hùng biện là bạc.” Dường như chúng ta càng nói nhiều bao nhiêu thì càng bị mắc lỗi bấy nhiêu.
- 혀 – LƯỠI
탈무드에는 혀에 관한 교훈이 많이 기록되어 있습니다. 여기서 이야기하는 혀는 사람의 말입니다.
Nếu đã từng đọc kinh Talmud, bạn sẽ nhận được nhiều lời giáo huấn liên quan đến cái lưỡi, thứ mà con người dùng để nói chuyện.
한 떠돌이 장삿군이 거리로 돌아다니면서
“사람이 한평생을 잘 살아갈 수 있는 비결을 팝니다. 사갈 사람은 없습니까?”
라고 큰 소리로 외쳤습니다.
Có một người lái buôn lang thang vừa đi vừa rao to: “Ở đây có bán bí quyết để có thể sống suốt đời an bình đây. Có ai muốn mua không?”
그러자 잘 사는 비결을 사기 위해서 삽사간에 수많은 사람들이 떠둘이 장삿군 주위에 몰려들었습니다. 그들 중에는 유태의 랍비도 몇 사람 끼어 있었습니다.
Ngay lập tức, đã có vô số người nhanh chóng vây quanh lão lái buôn, trong số đó không thiếu những giáo sĩ Do Thái cũng đang chật vật chen chúc.
“여보시오, 한평생을잘 사는비결이 무엇이오. 그걸 좀 삽니다. 어서 파시오.”
– Bí quyết sống an bình suốt đời của lão là gì thế?
– Hãy mua bí quyết đó đi mọi người!
– Làm ơn, bán cho tôi với!
사람들그 비결을 서로 먼저 사기 위하여 여기저기 떠들어 댔습니다.
Khung cảnh lúc đó vô cùng bát nháo, chẳng khác gì đang ở một cái chợ trời.
떠돌이 장삿군은,
“인생은 참되게 사는비결은 바로 자기의 혀를 조십해서 사용하는 일입니다.”
라고 말했습니다.
Khi ấy, ông lão lái buôn mới nói rằng “Bí quyết sống cuộc đời an bình chính nằm ở miệng lưỡi của mỗi người. Vì thế, hãy cẩn thận khi sử dụng nó.”
그 말을 들은 랍빋들도 고개를 끄덕였습니다.
Sau khi nghe những lời nói đó, các vị giáo sĩ gật gù suy nghĩ.
탈부드에는 또 혀에 관한 이런 이야기도 있습니다.
Ngoài ra, trong kinh Talmud còn đề cập đến những câu chuyện khác có liên quan đến cái lưỡi.
랍비가 학생들을 위해 만찬을 베풀었습니다.
Ngài học giả chiêu đãi buổi ăn tối cho các học trò của mình.
많은 요리들이 식탁 위에 차려졌습니다.
Ông ta bày rất nhiều món ăn trên bàn.
그 중에는 소의 혀와 양의 혀로 만든 요리도 있었는데, 어떤 혀 요리는 딱딱했고, 어떤 혀 요리는 부드러웠습니다.
Những món ăn làm bằng lưỡi bò và lưỡi cừu, có cái cứng và cũng có cái mềm.
학생들은 딱딱한 혀 요리보다는 부드러운 혀 요리만 먹으려고 했습니다.
Những người học trò có vẻ như chỉ ăn những món lưỡi mềm hơn là các món lưỡi cứng.
그걸 보고 있던 랍비는,
“너희들의 혀도 언제나 부드럽게 간직해야 한다. 딱딱한 혀를 가진 사람은 남을 성나게 하거나 다투는 일을 가져온 단다.”
라고 말했습니다.
Vị học giả nhận thấy điều đó liền nói rằng:
– Các ngươi nên nhớ rằng phải luôn luôn giữ cho lưỡi của mình thật mềm mại. Những người mà có lưỡi cứng là những người hay nổi giận và cãi vã với người khác.
여기서 말하는 부드러운 혀란 거짓이 아닌 진실된 말을 뜻합니다.
Tức là, những lời nói chân thật thì mềm mại còn lời giả dối thì không.
그리고 딱딱한 혀란 남을 헐뜯거나 남의 욕을 하는 말을 뜻하고 있습니다.
Điều đó đồng nghĩa với việc, những người có lưỡi cứng là người hay phỉ báng hoặc chửi bới người khác.
어느 날, 랍비가 하인에게 심부름을 시켰습니다.
“시장에 가서 맛있는 것을 좀 사 오너라.”
Một ngày nọ, vị học giả Do Thái bảo gia nhân của mình đi chợ và dặn rằng:
– Hãy đi chợ rồi mua đồ ăn ngon về đây cho ta.
시장에 간 하인은 소의 혀를 사 가지고 왔습니다. 랍비는 혀 요리를 맛있게 먹었습니다.
Gia nhân đi chợ mua lưỡi bò rồi mang về. Ngài học giả làm món lưỡi bò và ăn một cách ngon lành.
며칠 후 랍비는 다시 또 하인에게 심부름을 시켰습니다.
“지난 번에 사 온 혀는 맛이 있었다만, 이번에는 좀 싼 것을 사 오너라.”
Mấy ngày sau, nhà học giả lại tiếp tục sai gia nhân đi chợ tiếp, ông nói: “Lưỡi bò lần trước ngươi mua về rất ngon. Lần này hãy mua món rẻ mang về đây cho ta.”
시장으로 간 하인은 이번에도 또 소의 혀를 사 왔습니다.
Gia nhân tiếp tục đi đến chợ và lần này cũng mua lưỡi bò rồi mang về.
“지난 번에 맛있는 것을 사 오라고 했더니 혀를 사 왔다.그런데 오늘은 싼 것을 사 오라고 했는데 또 혀를 사 오다니, 이게 어찌 된 일인가?”
혀를 본 랍비가 물었습니다.
Nhà học giả nhìn vào rồi hỏi: “Lần trước ta bảo ngươi mua đồ ngon mang về đây cho ta và ngươi đã mua lưỡi bò rồi nhưng hôm nay ta bảo ngươi mua đồ rẻ, ngươi lại tiếp tục mua món ấy. Chuyện này là như thế nào đây?”
그러자 하인은,
“랍비님, 혀가 좋으면 그보다 더 좋은 것이 없겠습니다.그러나 혀가 나쁘면 그보다 더 나쁜 것이 어디 있겠습니까?”
라고 대답했습니다.
Gia nhân đã trả lời: “Thưa ngài, nếu món này ngon thì sẽ không có món nào ngon hơn món này. Tuy nhiên nếu món này rẻ thì cũng sẽ chẳng có món nào rẻ hơn món này ạ.”
- 하나님이 맡긴 보석 – NGỌC THẠCH MÀ CHÚA ĐÃ BAN CHO
우리 속담에 말 한 마디로 천 냥 빚을 갚는다는 말이 있습니다.
말이란 어떻게 하느냐에 따라 좋은 약이 되기도 하고 독약이 되기도 합니다
Tục ngữ có câu “Lời nói như một con dao hai lưỡi.” Lời nói có thể là hảo dược nhưng cũng có thể trở thành độc dược.
랍비 라이어가 안식일에 교회에서 설교를 하고 있었습니다.
Nhà học giả đang thuyết giáo ở nhà thờ vào ngày tế lễ.
바로 그때 집에 있던 그의 두 아들이 갑자기 죽었습니다.
Trong lúc đó, hai đứa con trai của ông ta bỗng lăn đùng ra chết ngay trong nhà.
랍비의 아내는 두 아들의 시체를 이층으로 옮기고 하얀 천으로 덮어 놓았습니다.
Vợ của giáo sĩ đưa thi thể của hai người con lên tầng hai và phủ lên một tấm lụa trắng.
그리고 교회에서 설교를 하고 있는 남편에게 두 아들의 죽음을 어떻게 알려야 할지 걱정을 했습니다.
Người vợ lo lắng không biết phải giải thích với chồng như thế nào về cái chết bất ngờ của hai người con.
랍비가 집에 돌아오자 아내는 이렇게 말했습니다.
Khi vị học giả trở về nhà, người vợ đã nói rằng:
“당신에게 한 마디 물어 볼 말이 있어요.”
– Thiếp muốn hỏi chàng một câu.
“무슨 말인지 물어 보구료”
– Có chuyện gì nàng cứ hỏi đi.
“오래 전에 어떤 사람이 저에게 잘 간수해 달라면서 아주 값진 보석을 맡겼답니다. 그런데 그 주인이 갑자기 나타나서 맡겨 둔 보석을 내달라고 하는군요.”
– Cách đây rất lâu, có một người nọ đã bảo thiếp phải trông coi và gìn giữ những viên ngọc thạch rất quí giá. Nhưng hôm nay người chủ nhân đó đột nhiên xuất hiện và bảo thiếp phải trả lại viên bảo ngọc đó.
“아, 그야 주인이 달라면 주지 그러오.”
– Nếu chủ nhân của chúng đã đòi thì sao mình dám không trả chứ?
“그렇죠? 주인이 달라고 하면 돌려 주는 게 옳겠죠?
– Đúng vậy phải không chàng? Nếu chủ nhân của chúng đã đòi thì mình phải trả lại chứ nhỉ?
“당연하지요. 주인에게 당장 돌려주구료.”
– Đương nhiên rồi. Mình phải trả lại chứ.
그러자 아내는 비로소 두 아들의 갑작스런 죽음을 애기하면서,
“실은 당신이 교회에서 설교를 할 때, 하나님께서 우리들
에게 맡겨 두셨던 두 개의 값진 보석을 하늘 나라로 다시 가져가셨답니다.”
라고 말했습니다.
Ngay lúc đó, người vợ mới nói về cái chết đột ngột của hai người con mình.
“Khi chàng đang thuyết giáo ở nhà thờ, Chúa đã lấy lại hai viên ngọc thạch quí giá mà Người đã trao cho thiếp.”
랍비는 두 아들의 죽음이 그지 없이 슬펐지만, 아무 말도 하지 않았습니다.
Sau khi nghe tin về cái chết của hai người con, nhà học giả dù không thể hiện ra sự buồn đau của mình nhưng ông tuyệt nhiên thốt nên lời nào cả.
어느 부모든 자식의 죽음처럼 슬픈 일은 없습니다.
Trên đời này, còn gì đau khổ hơn đối với các bậc cha mẹ bằng cái chết của con mình chứ.
만일 랍비의 아내가 슬프게 통곡하면서 귀여운 아이들이 억울하게 죽었다고 큰 소리를 쳤다면 랍비의 마음은 어땠을까요?
Nếu như người vợ của giáo sĩ kêu khóc đau thương và hai người con trai gào thét nói rằng mình đã chết oan uổng thì liệu tâm trạng của ngài giáo sĩ sẽ như thế nào nhỉ?
말이란 이처럼, 어떻게 하느냐에 따라 사람의 마음까지도 바꿀 수 있게 합니다.
Như thế tức là, chúng ta có thể thay đổi được cả tâm trạng của người khác tùy thuộc vào việc đó như thế nào.
- 누구의 힘이 강한가 – UY LỰC CỦA AI LÀ MẠNH NHẤT
어떤 나라의 임금님이 중병에 걸려 자리에 눕게 되었습니다.
Ở một quốc gia nọ, có một vị Vua lâm trọng bệnh nên phải nằm một chỗ.
그병은 그 때까지 알려지지 않았던 새로운 병이었습니다.
Đó là một căn bệnh lạ mà chưa có ai từng nghe qua.
많은 의사들이 진찰을 했지만, 병 이름이 무엇인지, 어떻게 치료를 해야 되는지 알 수가 없었습니다.
Nhiều thái y đã chuẩn đoán bệnh cho Vua nhưng cũng không ai biết được đó là bệnh gì và phải chữa trị như thế nào.
임금님은 마침내 이 세상에서 가장 뛰어나다는 의사를 불러서 진찰을 받았습니다.
Cuối cùng, đức Vua cho gọi một vị thái y tài giỏi nhất trong thiên hạ đến để chẩn bệnh.
“어떻소? 내 병은 고칠 수 있는 병이오?”
임금님은 몹시 걱정이 되는지, 목소리까지 떨렸습니다.
Đức Vua lo lắng và run rẩy hỏi:
– Thế nào rồi? Bệnh tình của ta có thể chữa được không?
그러자 의사는,
“임금님, 걱정 마십시오. 임금님의 병은 대단히 드문 병이 긴 하지만 암사자의 젖을 드시면 곧 나으실 수 있습니다.”
라고 대답했습니다.
Ngay lập tức, thái y trả lời rằng:
– Thưa bệ hạ, Người đừng quá lo lắng. Bệnh của Người là bệnh rất hiếm gặp, tuy nhiên nếu bệ hạ được uống sữa sư tử cái thì nhất định sẽ khỏi ngay ạ.
병이 나을 수 있단는 의사의 말에 임금님은 몹시 기뻐했습니다.
Đức Vua rất phấn khởi khi nghe thái y nói thế.
그러나 그 사나운 암사자의 젖을 어떻게 구하느냐가 큰 문제였습니다.
Tuy nhiên, làm thế nào để tìm được sữa của sư tử cái hung mãnh là một vấn đề lớn.
생각다 못한 임금님은 온 나라에 알려서 암사자의 젖을 구해 오는 사람에게는 큰 상을 내리겠다고 했습니다.
Đức Vua suy nghĩ hoài mà không tìm được cách nên cuối cùng đã ngài thông báo trên toàn vương quốc rằng sẽ ban thưởng hậu hĩnh cho người nào có thể lấy được sữa của sư tử cái.
나라 안의 사람들은 임금님의 상이 탐나기는 했지만 그 사나운 사자로부터 어떻게 젖을 짜야 할지 좋은 방법이 생각나지 않았습니다.
Thần dân trong vương quốc ai cũng mong muốn lấy được giải thưởng của đức Vua nhưng chẳng ai biết được làm cách nào để có thể vắt được sữa của bọn sư tử cái hung mãnh.
시골에 살고 있던 한 지혜로운 사나이가 이 소식을 들었습니다.
“옳지, 내가 암사자의 젖을 구해서 임금님의 병을 고치고 상을받아야지.”
Ở một làng quê nọ, có một cậu thanh niên thông minh đã nghe được tin này và thầm nghĩ:
“Tuyệt vời, nếu ta có thể lấy được sữa sư tử cái cho đức Vua chữa khỏi bệnh thì ta sẽ có được một phần thưởng to lớn.”
사나이는 먼저 암사자가 살고 있는 동굴을 찾았습니다. 그리고는 다른 먼 곳에서 새끼 사자를 몇 마리 구해 왔습니다.
Đầu tiên, cậu thanh niên đi tìm hang động nơi sư tử cái đang sống và tìm thêm một vài con sư tử con ở những nơi khác xa hơn.
그런 다음 이 사나이는 사자가 살고 있는 동굴 가까이 가서 새끼사자를 한 마리씩 어미사자에게 주었습니다.
Sau đó, cậu đến gần hang động mà sư tử cái đang sống rồi thả từng con một cho sư tử cáI.
하루 이틀 지나면서 그는 어미사자와 조금씩 친해졌습니다.
Một ngày, hai ngày trôi qua cậu ta dần dần trở nên quen với sư tử cái.
그리고 열흘이 지났을 때는 어미사자와 함께 뒹굴며 놀 만큼 친해졌습니다.
Mười ngày trôi qua, cậu ta đã trở nên thân thiết và có thể nô đùa cùng sư tử cái.
그래서 이 지혜로운 사나이는 임금님의 병을 고칠 수 있을 만큼 어미사자 젖을 짜낼 수 있었습니다.
Cứ thế, chàng thanh niên thông minh này đã vắt được sữa sư tử cái để có thể chữa bệnh cho đức vua.
암사자의 젖을 구한 사나이는 부지런히 왕궁을 향해 걸었습니다.
Cậu thanh niên hăng hái đi về hướng hoàng cung không ngừng nghỉ.
쉬지 않고 걷던 사나이는 왕궁이 가까워 지자 몹시 피곤함을 느껴 길가에서 잠깐 쉬다가 깜박 잠이 들었습니다.
Khi đã gần đến hoàng cung, cậu cảm thấy rất mệt nên đã nghỉ ngơi bên đường giây lát nhưng lại ngủ quên lúc nào không hay.
잠이 든 사나이는 자기 몸의 여러 부분이 서로 싸움을 하는 꿈을 꾸었습니다.
Cậu mơ thấy một cuộc chiến giữa các bộ phận trên cơ thể của mình.
그것은 몸의 각 부분 중에서 어느 부분이 가장 중요한가를 가리기 위한 말다툼이었습니다.
Chúng đang cãi vã nhau vì cái nào cũng đều cho rằng mình quan trọng nhất.
“만약 발인 내가 없었다면 사자가 살고 있는 동굴까지 갈 수 없었을 거야. 그리고 암사자의 젖을 짰다고 하지만 내가 없었다면 왕궁까지 올 수도 없지. 그러니까 내가 제일 중요해.”
먼저 다리가 말했습니다.
“Nếu như không có tôi thì sẽ không thể đến được hang sư tử. Và cũng không vắt được sữa sư tử cái cũng như chẳng thể đến được cung Vua. Chính vì thế, tôi là quan trọng nhất.” Cái chân lên tiếng đầu tiên.
그러자 눈이 나서면서
“그런 말 마. 만약 눈인 내가 없었다면 사자의 동굴도 찾을 수 없었을 거야. 게다가 왕궁이 어디에 있는지 어떻게 알 수가 있냐? 앞을 볼 수 있는 눈이야말로 가장 중요한 부분이야.”
라고 말했습니다.
Đôi mắt nghe thế liền chen vào:
– Đừng nói thế chứ. Nếu như không có tôi thì sẽ không thể tìm được hang sư tử đâu. Hơn nữa, làm sao biết được cung Vua ở đâu chứ? Vì mắt nhìn về phía trước nên mắt chính là bộ phận quan trọng nhất.
그러자 몸속의 심장이 나서면서,
“너희들이 아무리 잘났다고 해도 튼튼한 심장이 없었다면 어떻게 사자와 친해질 수 있단 말이냐? 그리고 쉬지 않고 여기까지 올 수 있었던 것도 튼튼한 심장이 있었기 때문이라는 걸 알아야 돼.”
라고 말했습니다.
Ngay lúc đó, tim bên trong cơ thể cũng lên tiếng:
– Cho dù tất cả các ngươi có quan trọng đi nữa thì nếu không có trái tim can đảm là ta thì làm sao có thể trở nên thân thiết với sư tử được chứ? Và có thể đi đến tận đây mà không nghỉ ngơi thì là đó vì có trái tim can đảm nên mới có thể đi bộ được đấy.
그러자 가만히 듣고 있던 혀가 불쑥 나서면서,
“모두들 저 잘났다고 떠들지만 그래 봐야 헛일이야. 내가 없다면 너희들은 모두 소용 없다는 걸 알아야 돼.”
라고 말했습니다.
Sau khi lắng nghe xong thì lưỡi đột nhiên cũng tham gia: “
– Các ngươi đừng có mà ầm ĩ tranh giành. Cứ chờ đó mà xem. Nếu như không có ta thì các ngươi cũng chỉ là đồ vô dụng mà thôi.
혀의 말을 들은 몸의 각 부분은 일제히 화를 발끈 내면서,
“이 건방진 혀야. 너는 뼈도 없는 조그만 고기덩어리에 불과한 것이, 건방지게 까불지 말아. 너야말로 사자의 젖을 구하는 데 손톱만큼도 도움을 주지 못했어.”
라고 대들었습니다.
Lời nói của lưỡi làm các bộ phận khác đồng loạt tức giận.
– Này, cái lưỡi ngạo mạn kia. Ngươi chẳng qua chỉ là một cục thịt bé xíu không xương.
Đừng có mà láo toét ngạo mạn như thế. Ngươi to chỉ bằng ngón tay cái thôi thì cũng chẳng giúp ích được gì trong việc tìm sữa sư tử đâu.
모두가 덤벼드는 바람에 혀는 잠자코 입을 다물었습니다.
Vì mọi bộ phận đều hùa vào nói nên lưỡi đành im lặng và đi ngủ.
그러는 사이에 사나이는 벌써 궁전에 도착했습니다.
Cuối cùng, cậu thanh niên cũng đã đến được hoàng cung.
그 때 혀가 불쑥 하는 말이,
“누가 제일 중요한지 곧 알게 될 거야.”라고 했습니다.
Khi ấy, lưỡi đã nghĩ thầm rằng: “Nhất định ta sẽ cho các ngươi biết ai mới là quan trọng nhất.”
사나이는 사자의 젖을 임금님께 바쳤습니다.
“이건 무슨 젖이냐?”
임금님이 물었습니다.
Cậu thanh niên dâng sữa sư tử cho đức Vua xong, ngài hỏi:
– Đây là sữa gì?
그러자 사나이는 엉뚱하게도,
“예, 이건 개의 젖입니다.”
라고 대답했습니다.
Bất ngờ thay, cậu thanh niên ngớ ngẩn trả lời:
– Thưa ngài, đây là sữa chó ạ.
그 말을 들은 신체의 각 부분은 깜짝 놀랐습니다.
Khi nghe được câu trả lời đó, tất cả các bộ phận cơ thể rất kinh ngạc.
잘못하다가는 모두가 죽고 말 테니까요.
Vì nếu có sơ suất trong lời nói, tất cả đều có thể bị giết.
그제서야 신체의 각 부분은 혀의 힘이 얼마나 강한가를 깨닫고는 모두 혀에게 정중히 사과를 했습니다.
Lập tức, tất cả bộ phận đã hiểu được uy lực của lưỡi mạnh đến dường nào nên chúng liền xin lỗi lưỡi một cách trịnh trọng.
그러자 혀는,
“임금님, 제가 말씀을 잘못드렸습니다. 이건 틀림없는 사자의 젖입니다.”
라고 말했습니다.
“Thưa đức Vua, thảo dân có chút nhầm lẫn ạ. Đây chính là là sữa của sư tử cái ạ.” lưỡi sửa lại lời nói của mình.
이 이야기의 교훈은 혀가 우리 몸에서 얼마나 중요한가를 가르쳐 주기도 하지만, 자칫 혀가 말을 잘못하는 경우, 엉뚱한 잘못을 저지를 뿐 아니라 목숨까지 빼앗기게 된다는 걸 가르쳐 줍니다.
Câu truyện này đã dạy cho chúng ta biết về tầm quan trọng của lưỡi. Bởi vì, có những trường hợp do sơ suất của lưỡi không chỉ gây ra những sai lầm ngớ ngẩn mà còn có thể tước đoạt đi sinh mạng của mình.
탈무드는 사람의 혀를 칼에 비유하고 있습니다.
Kinh Talmud ví lưỡi của con người cũng như lưỡi dao.
칼을 주의해서 다루지 않고 아무렇게나 마구 휘두르면 다른 사람에게 상처를 입힐 뿐 아니라 자신도 상처를 입게 됩니다.
Nếu vung dao một cách tùy tiện không kiểm soát thì không chỉ gây tổn thương cho mình mà còn sẽ gây tổn thương cho người khác.
마찬가지로 혀를 함부로 놀려서 터무니없는 말을 하다가는 다른 사람뿐 아니라 자신에게도 해가 된다는 것이 탈무드의 가르침입니다.
Tương tự, đó là sự răn dạy của Talmud không chỉ cho mình mà cũng cho người khác rằng không được nói đùa một cách bừa bãi, vô căn cứ.
- 말은 주워 담을 수 없다 – NHỮNG LỜI NÓI KHÔNG THỂ LẤY LẠI
어떤 마을에 아주 수다스러운 여인이 있었습니다. 어떻게나 말이 많은지, 사람들은 그 여인을 수다장이, 허풍장이라고 불렀습니다.
Ở một ngôi làng nọ, có một người phụ nữ rất nhiều chuyện, mọi người thường gọi cô ta là kẻ khoác lác, lắm lời.
이웃에 사는 아주머니들이 그 여인의 수다를 듣다 못해서 랍비를 찾아가서 의논을 했습니다.
“그 여자는 허풍이 너무 심해요.”
Bà con trong làng vì không thể chịu được sự lắm chuyện của cô ấy nên đã tìm đến nhà học giả để bàn luận.
– Cô ấy hay bịa chuyện quá đi.
“한번 말을 꺼내면 해가 질 때까지 끝나지 않아요.”
– Nếu chúng ta chỉ nói một câu, cô ta chắc phải nói đến cả năm cũng chưa hết.
“그 여자는 개미를 보면 황소를 봤다고 할 만큼 허풍을 떨면서 여기저기 돌아다니며 온갖 소문을 다 퍼뜨리고 다닌답니다.”
– Cô ta mà thấy một con kiến thì cô ta sẽ bảo là thấy con bò, rồi đi đây đó tung tin ra với
mọi người.
“그런 건 아무것도 아니어요. 그 수다장이 여자는 말이죠,우리 남편이 출근하고 나면 내가 낮잠만 자고 아무 일도 안 한다고 떠벌리며 다녀요,;
– Nhưng không chỉ có vậy đâu. Khi chồng tôi vừa làm việc xong thì cái cô lắm mồm đó nói rằng chồng tôi ban ngày chỉ ngủ thôi, chẳng làm việc gì cả rồi còn đi nói như vậy với hàng xóm nữa.
“나한테는 뭐라는 줄 아셔요? 만날 때마다 ‘아유, 부인은 어쩌면 그리도 곱지요? 라고 해 놓고는 다른 사람들을 만나면 내가 나이에 어울리지 않게 멋만 부린다고 떠든답니다.”
– Mọi người có biết cô ấy đã nói gì với tôi không? Mỗi khi gặp tôi, cô ấy bảo rằng vợ tôi rất xinh đẹp. Nhưng khi gặp người khác thì cô ta lại bảo là tuổi của tôi lại không phù hợp với vợ tôi.”
랍비를 찾아온 아주머니들의 불평은 이만저만이 아니었습니다.
Nỗi bất bình của các bà con tìm đến vị học giả không phải là chuyện nhỏ.
랍비는 한 사람 한 삶이 호소하는 말을 조용히 귀기울여 들었습니다.
Ông im lặng lắng nghe câu chuyện của từng người một.
그리고 여자들이 돌아가 심부름군을 보내서 수다장이 여인을 데려오게 했습니다.
Bà con bảo người giúp việc gọi cô gái đó đến và mọi người hỏi cô:
그리고는,
“당신은 왜 이웃 사람들에 대해 이러쿵저러쿵 말을 만들어 떠벌립니까?”
하고 물었습니다.
– Tại sao cô lại bịa chuyện đặt điều đối với những người hàng xóm xung quanh như thế?
그러자 그 여인은 싱긋 웃으면서 말했습니다.
Cô gái vừa cười vừa trả lời rằng:
“제가 특별히 말을 만들어 내는 게 아니어요. 다만 제게 실제보다 약간 과장해서 말하는 버릇이 있어서 그럴 거여요. 어쩌다가 사실이 아닌 애기를 좀더 재미있게 하려고 그런 것뿐입니다. 하지만 제가 말을 좀 많이 하는 편인 것 같아요. 남편도 그러거든요. 제가 말이 좀 많다고.”
– Tôi không phải là một người bịa chuyện đặt điều. Chẳng qua chỉ là thói quen nói sự thật của tôi như mới như vậy đó. Đôi lúc nếu không phải là sự thật thì cũng để góp vui cho mọi người thôi. Nhưng hình như tôi cũng thuộc dạng người nói nhiều. Vì chồng tôi cũng như vậy nên tôi cũng nói hơi nhiều.
여인의 말을 들은 랍비는 잠깐 생각에 잠겼다가 방으로 들어갔습니다.
Sau khi nghe xong những lời nói của cô gái, nhà học giả ngẫm nghĩ trong chốc lát rồi đi vào phòng.
그리고 커다란 자루를 가지고 나와서,
“당신은 자신이 말이 많다고 인정했소. 그렇다면 좋은 치료 방법을 생각해 봅시다.”
라고 하면서 여인에게 그 자루를 넘겨 주었습니다.
Sau đó ngài quay trở lại và cầm theo một bao tải.
“Cô đã tự thừa nhận mình là người nói nhiều. Vậy thì ta sẽ đưa ra một phương pháp điều trị tốt cho cô.” Vừa nói ngài vừa đưa cô gái bao tải.
“이 자루를 가지고 광장까지 가시오. 광장에 도착하면 자루를 열고 이 속에 들어 있는 것을 꺼내어 길바닥에 늘어놓으면서 집으로 돌아가시오. 집에 도착하면 다시 늘어 놓은 것을 주워 담아 가지고 오시오.”
람비가 말했습니다.
– Hãy mang bao tải này đi đến quảng trường. Đến nơi rồi cô hãy mở nó ra và thu hết những gì cô nghe được vào trong cái bao này rồi vừa rải xuống đất vừa đi về nhà. Về đến nhà rồi thì hãy nhặt nó lên rồi lại trải xuống đất lại.
여인이 자루를 받아 들었습니다. 자루는 아주 가벼웠습니다. 도대체 이 속에 무엇이 들어 있는 것일까? 여인도 궁금했습니다.
Cô gái nghe rồi nhận cái bao tải, nó nhẹ tênh. Cô tò mò: “Liệu ở bên trong là gì nhỉ?”
광장에 도착한 여인은 자루 속에 있는 걸 봤습니다. 자루속에는 가벼운 새털이 가득 들어 있었습니다.
Sau khi đến quảng trường, cô gái thấy bên trong bao tải chứa đầy lông chim.
여인은 광장에서부터 새털을 한 줌씩 꺼내어 길가에 늘어 놓으면서 집으로 향했습니다 맑게 갠 가을날, 바람이 살랑 살랑 불고 있었습니다.
Ở quảng trường, cô gái hốt từng nắm lông chim rải xuống lề đường trong khi đang đi về nhà. Ngày mùa thu trời quang mây tạnh, gió thổi se se lạnh.
이윽고 집에 도착하니까 자루는 텅 비게 되었습니다.
Một lúc sau cô về đến nhà thì bao tải cũng trống trơn.
여인은 다시 빈 자루를 가지고 길에 늘어놓은 새털을 주워 담으면서 광장으로 가려고 했습니다.
Cô lại mang cái bao tải đi về hướng quảng trường nhặt lại số lông chim cô đã rải xuống trên đường đi.
그런데 새털은 가을 바람에 날려 여기저기 날아다녀서 좀처럼 주울 수가 없었습니다.
Nhưng vì lông chim nhẹ bẫng nên chúng đã bị gió mùa thu thổi bay tứ tung, cô không thể nào nhặt lại được như ban đầu.
여인은 랍비에게 와서 자루를 넘겨 주었습니다.
Cô gái đi đến chỗ nhà học giả và trả lại cái bao.
자루 속에는 몇 개의 새털밖에 들어 있지 않았습니다. “나는 한 자루의 새털을 드렸는데 다 어디 가고 이것뿐이 오?”
랍비가 물었습니다.
Số lông bên trong đã bị vơi đi nhiều so với ban đầu. “Ta đưa cho cô một cái bao đầy lông và giờ chỉ còn lại nhiêu đây, số còn lại ở đâu?” nhà học giả hỏi.
“새털이 바람에 날아가서 주울 수가 없었습니다. 그래서 그것밖에 줍지 못했답니다.”
“Gió đã mang chúng đi rất xa, tôi không thể nhặt hết được. Tôi chỉ lấy lại được nhiêu đây thôi.”
“그랬을 테지요.”
랍비는 고개를 끄덕이면서 말했습니다.
“Đương nhiên sẽ như thế rồi.” Ông gật gù nói.
“말이라는 것도 이 자루 속에 담겨 있던 새털과 같은 겁니다. 한번 입에서 나오고 나면 다시는 되돌려 담을 수가 없어요.”
“Lời nói cũng giống như những chiếc lông trong cái bao này. Một khi đã nói ra rồi thì không cách nào lấy lại được.” Ông tiếp lời.
랍비의 지혜로운 가르침 덕분에 떠버리 여인의 수다스러움은 고쳐졌습니다.
Nhờ vào bài học trí tuệ của giáo sĩ mà thói quen nhiều chuyện của cô gái đã được thay đổi.
그렇습니다. 한번 입에서 나온 말은 이 사람 저 사람의 입을 통해 돌아다닙니다.
Quả thật, lời nói một khi đã nói ra thì sẽ đi từ miệng người này đến tai người kia rất nhanh.
그 말을 한 사람이 자기의 말을 주워 담을 수도 없고, 취소한다고 없어지는 것도 아닙니다.
Một lời đã nói ra thì không thể nào lấy lại hay hủy bỏ được, cũng như không thể nào biến mất được.
‘발 없는 말이 천 리 간다’는 우리 나라의 속담도 있습니다.함부로 남의 험담을 하면 그 책임까지 져야 된다는 것, 참 무서운 일입니다.
Có câu tục ngữ: “Trăm năm bia đá cũng mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Nếu đã nói xấu người khác thì phải chịu trách nhiệm cho lời nói của mình đến cùng. Đấy quả thật là một việc rất đáng sợ.
- 약 속 – LỜI HỨA
따뜻한 봄날, 예쁜 소녀가 들로 산책을 나왔습니다.
Một ngày mùa xuân ấm áp, có một cô gái xinh đẹp thong thả ra ngoài dạo bước.
새들은 고운 목소리로 지저귀고 곱게 핀 꽃들이 봄바람에 하늘거리며 춤을 추고 있었습니다.
Tiếng chim ríu rít và những bông hoa khoe sắc đua nở đung đưa theo làn gió như đang khiêu vũ cùng mùa xuân.
소녀는 아름다운 봄에 취해서 돌아다니다가 그만 길을 잃고 말았습니다.
Cô gái đắm chìm trong vẻ đẹp mùa xuân và rồi quên mất đường về.
배도 고프고 목도 말랐습니다.
Cô cảm thấy cơn đói và cơn khát đang kéo đến vây quanh mình.
사방을 살펴보던 소녀는 저만큼 우물이 있는 걸 보았습니다.
Sau khi quan sát khắp nơi, cô gái tìm thấy được một giếng nước.
소녀는 두레박 줄을 타고 내려가서 물을 마셨습니다.
Cô dùng dây thừng rồi leo xuống giếng để uống nước.
그러나 물을 마시고 다시 올라가려고 하니까 도저히 혼자 힘으로는 올라갈 수가 없었습니다.
Tuy nhiên, khi cô định leo lên thì hoàn toàn không có cách nào để lên được.
“살려 주셔요. 우물 속에서 올라갈 수가 없어요. 제발 저를 좀 올려 주셔요.”
– Cứu tôi với! Tôi không thể leo lên khỏi cái giếng này. Làm ơn hãy kéo tôi lên với!
소녀는 큰 소리로 외쳤지만 지나가는 사람이 없었습니다.
Cô gái cố gắng gào thật to nhưng chẳng có ai đi ngang qua để nghe thấy lời cầu cứu ấy.
소녀는 겁에 질려서 훌쩍훌쩍 울며 자꾸자꾸 소리를 질렀습니다.
Cứ thế, cô vẫn liên tục kêu cứu, giàn giụa nước mắt vì sợ hãi.
“살려 주셔요. 나를 좀 올려 주셔요.”
– Cứu tôi với! Làm ơn kéo tôi lên với!
소녀는 지쳐서 목소리도 점점 작아졌습니다.
Giọng nói cô mỗi lúc càng nhỏ lại vì mệt.
그 때 마침한 젊은이가 우물가를 지나가다가 소녀의 힘없는 소리를 듣게 되었습니다.
Đúng lúc đó, có một chàng trai trẻ đi ngang qua và đã nghe được lời cầu cứu đầy tuyệt vọng của cô gái.
젊은이는 우물 속에서 울고 있는 소녀를 봤습니다.
Chàng trai nhìn thấy cô đang khóc nức nở trong giếng.
그는 두레박 줄을 끌어올려 소녀를 구해 주었습니다.
Anh ta dùng dây thừng của gàu nước thả xuống và kéo cô gái lên.
두 사람은 서로가 마음에 들었습니다.
Hai người, như lẽ tự nhiên, nảy sinh tình cảm với nhau.
그래서 결혼 약속을 했습니다. 그리고 둘의 약속을 증언해 줄 증인을 찾았지만 우물가에는 다른 사람이라고는 아무도 없었습니다.
Họ trao lời hẹn ước và đi tìm nhân chứng chứng minh cho lời hứa của mình. Tuy nhiên, chẳng có ai ngoài cái giếng này.
그 때 마침 족제비 한 마리가 우물 옆을 가로질러 숲으로 달려갔습니다.
Lúc ấy, có một con chồn chạy vào rừng và băng ngang qua bên cạnh cái giếng.
“아, 저 족제비를 우리들의 증인으로 해요. 그리고 이 우물도 우리의 증인이고요.”
소녀가 말했습니다.
“Hay là ta hãy lấy con chồn kia làm nhân chứng cho hai ta. Và giếng này cũng vậy.” Cô gái nói.
“좋아요. 족제비와 이 우물은 우리의 결혼 약속을 위한 증인이오.”
젊은이도 말했습니다.
“자, 그럼 내가 부모님께 말해서 중매쟁이를 보내도록 할테니까 아가씨는 집에 가서 기다리시오.”
Chàng trai trẻ đáp: “Này nàng hỡi, vậy thì ta sẽ nói với phụ mẫu nay mai sẽ đưa người mai mối sang nhà nàng. Nàng hãy về nhà và đợi ta nhé.”
두 사람은 다시 한 번 결혼에 대한 맹세를 주고받으며 헤어졌습니다.
Hai người thề hẹn về cuộc hôn nhân một lần nữa rồi chia tay.
그리고 몇 년의 세월이 지났습니다.
Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi qua.
소녀는 젊은이와의 약속을 지키며 변함없이 기다리고 있었습니다.
Cô gái giữ đúng lời hẹn với chàng trai và chờ đợi chàng, không thay đổi.
그러나 젊은이는 소녀와의 약속을 잊은 채 다른 아가씨와 결혼을 하고, 귀여운 아이까지 낳고 행복하게 살고 있었습니다.
Nhưng chàng trai đã kết hôn với một cô gái khác, họ sống với nhau rất hạnh phúc và còn có với nhau một cậu con trai kháu khỉnh.
그런데 어느 날, 젊은이의 아이가 풀밭에서 뛰어놀다가 그만 족제비를 밟았습니다.
Một ngày nọ, trong lúc con trai của chàng đang chạy nhảy ở bãi cỏ thì vô tình đạp phải con chồn khi xưa.
족제비는 화가 나서 아이의 목을 물어 죽여 버렸습니다.
Con chồn nổi giận và cắn cổ đứa bé đến chết.
젊은이 내외는 몹시 슬퍼하며 아이를 양지바른 곳에 묻어 주었습니다.
Vợ của chàng rất đau buồn và nàng chôn con mình ở một nơi có đầy ánh nắng.
그리고 또 몇 해가 지났습니다. 젊은 부부에게는 다시 아이가 태어나 행복한 나날을 보내게 되었습니다.
Vài năm sau, đôi vợ chồng lại sinh thêm một đứa con khác và họ sống những ngày tháng rất hạnh phúc.
두 번째 아이가 자라서 아장아장 걷게 되었습니다.
Người con thứ hai lớn lên rồi bắt đầu chập chững tập đi.
아이는 어느 날, 우물가에서 놀다가 우물에 비친 자기의 모습을 보게 되었습니다.
Một ngày nọ, trong lúc đứa bé đang nô đùa thì thấy bóng mình ở trong giếng.
아이는 물 속에 비친 그림자를 잡으려고 몸을 구부리다가 그만 . 속에 빠져 죽었습니다.
Vì muốn bắt được bóng mình trong giếng nên đứa bé đã té vào giếng rồi chết.
아이가 보이지 않자, 젊은이는 사방으로 아이의 이름을 부르며 찾아다녔습니다.
Không thấy con mình đâu, chàng trai vừa gọi tên con mình vừa đi tìm khắp nơi.
그러다가 우물 속에서 죽어 있는 아이를 발견했습니다.
Sau đó, anh ta phát hiện con mình đã chết ở trong giếng.
그 순간 젊은이는 비로소 언젠가 우물 속에서 구해 준 소녀와의 약속이 생각났습니다.
Ngay lúc đó, anh mới chợt nhớ đến lời nguyện ước với cô gái anh đã cứu khỏi giếng năm xưa.
그리고 족제비
와 우물을 증인으로 삼은 일도 기억해 냈습니다.
Anh ta nhớ ra rằng con chồn và giếng nước chính là nhân chứng năm nào.
젊은이는 아내에게 오래 전, 어떤 소녀와 결혼 약속을 했던 일을 애기했습니다.
Anh kể cho vợ mình nghe về chuyện đã từng hứa hẹn se duyên cùng với cô gái nọ.
그리고 족제비와 우물이 그들의 증인이었다고 했습니다.
Và cũng nói về nhân chứng hẹn ước của họ, là con chồn và giếng nước.
“그렇다면 당신은 그 소녀에게로 돌아가야 돼요. 우리의 아이들이 족제비와 우물 때문에 죽은 이유를 이제야 알겠군요. 그 소녀는 지금도 당신을 기다리고 있을 거여요.”
아내가 말했습니다.
“Nếu vậy thì chàng phải trở về với cô ấy mới được. Giờ thiếp đã biết được lý do tại sao các con chúng ta lại chết vì con chồn và cái giếng. Đến giờ cô ấy vẫn đang đợi chàng đó.” Người vợ nói.
“그렇소. 내가 소녀와의 결혼 약속을 잊고 당신과 결혼했기 때문에 이처럼 불행한 일이 생긴 거요. 내가 잘못했소.”
“Ta đã không giữ lời hẹn ước năm xưa với cô ấy. Vì ta đã bội tín nên mới xảy ra những chuyện bất hạnh này. Ta đã sai rồi.”
젊은이는 지금까지 약속을 믿고 기다릴 소녀를 생각하며 몹시 뉘우쳤습니다.
“당신은 이제 그 소녀와 결혼을 해야 되겠지요? 그렇다면 저는 당신과 살 수 없습니다. 우리는 헤어질 수밖에 없군요.”
Đến tận bây giờ anh ta mới tin vào lời hứa ấy và biết rằng cô gái vẫn đang đợi mình, không ngừng cảm thấy ân hận.
약속의 중요함을 아는 아내는 남편을 이해하고 헤어졌습니다.
젊은이는 소녀가 사는 마을로 찾아갔습니다. 소녀는 그 때 까지도 젊은이를 기다리며 살고 있었습니다. 그래서 두 사람은 오래 전의 결혼 약속을 지켜 결혼을 했습니다. 그리고 오래오래 행복하게 살았답니다.
Chàng trai tìm đến ngôi làng cô gái đang sống. Cô ấy vẫn ở đó và đang đợi anh ta. Hai người kết hôn với nhau như lời ước hẹn se duyên năm xưa. Và họ sống hạnh phúc với nhau suốt đời.
탈무드에 실린 이 이야기는 약속의 중요성과 말을 함부로 하지 말라는 것을 가르치고 있습니다.
Câu chuyện mà Talmud vừa kể trên đây chính là một lời răn dạy cho chúng ta rằng không bao giờ được tùy tiện hứa những lời hứa quan trọng.
약속이란, 말로써 이루어지는 계약입니다.
Lời hứa là một bản giao ước được thực hiện bằng lời nói.
친구들과의 약속, 부모님과의 약속, 사람은 누구나 일생 동안 많이 약속을 하며 살아갑니다.
Trong cuộc đời mình, bất cứ ai cũng đã từng đôi lần hứa hẹn với bạn bè, bố mẹ.
때로는 약속을 하면서 다짐도 새웁니다.
Thỉnh thoảng chúng ta còn hứa hẹn và có vật làm tin.
그러 면서도 약속을 잊고 실천하지 않을 때로 있습니다.
Tuy nhiên lại có khi chúng ta quên đi và không thực hiện lời hứa.
약속을 가키지 않으며 거짓이 되고, 결국 거짓말장이가 되어 신용을 잃게 됩니다.
Nếu không thực hiện lời hứa có nghĩa là chúng ta đã nói dối. Kết quả là chúng ta trở thành kẻ bội tín và làm đánh mất lòng tin ở người khác.
그러니까 말로씨 하는 약속이라도 아무렇게나 하지 마셔요. 하찮은 약속이라도 깊이 생각하고, 일단 약속을 했다면 어떤 일이 생기든 꼭 지켜야 하겟습니다.
Chính vì thế, dù cho chỉ hứa hẹn bằng lời nói thì cũng không được tùy tiện nói bất cứ lúc nào. Dù là lời hứa vẩn vơ đi nữa cũng phải suy nghĩ thật kỹ trước khi hứa. Một khi đã hứa thì nhất định phải giữ đúng lời hứa dù cho có chuyện gì xảy ra đi nữa.
______________
Mời các bạn tham khảo ngay Khóa học cho người mới bắt đầu:
- Trụ sở chính: 384/19 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3. 028.3932 0868/ 3932 0869, 0931 145 823
- Cơ sở 1: 72 Trương Công Định, P.14, Quận Tân Bình , 028.3949 1403 / 0931145 823
- Cơ sở 2: Số 18 Nội khu Mỹ Toàn 2, khu phố Mỹ Toàn 2, H4-1, Phường Tân Phong, Quận 7, 028.6685 5980
- Cơ sở 3: 856/5 Quang Trung, P8, Gò Vấp (Ngay cổng sau Trường THPT Nguyễn Công Trứ, hẻm đối diện công ty Mercedes) 028.3895 9102
- Cơ sở 4: 144 Đinh Tiên Hoàng, P.1, Quận Bình Thạnh, 028.6270 3497
- Cơ sở 5: 193 Vĩnh Viễn, Phường 4, Quận 10, 028.6678 1913